Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Bàn về tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong vụ án cụ thể

Thứ ba - 08/03/2022 09:41 1.652 0
Qua thực tiễn công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật tại Viện kiểm sát nhân huyện Đức Cơ về việc áp dụng tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, còn có những quan điểm khác nhau, tôi xin được trao đổi ý kiến cá nhân về việc áp dụng tình tiết trên trong một vụ án cụ thể; rất mong nhận được sự tham gia, đóng góp của đồng nghiệp và bạn đọc.
Nội dung vụ việc
Ngày 24/6/2021, Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý vụ án dân sự số 93/2021/TLST-HNGĐ về giải quyết yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Nguyễn Thị Th. Ông T yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của Ông với bà Th cùng những người có quyền lời và nghĩa vụ liên quan để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bà Th. Bà Th là người phải thi hành án 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) tiền trốn thuế và 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) án phí theo Bản án hình sự sơ thẩm số 80/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh G.
Quá trình giải quyết ngày 30/9/2021, Tòa án nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 93/2021/TLST-HNGĐ ngày 24/6/2021 về giải quyết yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Nguyễn Thị Th. Với lý do: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Nguyễn Thị Th có quan hệ vợ chồng, có con chung và tài sản chung. Bà Th là người phải thi hành án 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) tiền trốn thuế và 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) án phí theo Bản án hình sự sơ thẩm số 80/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh G. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung với bà Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các con của ông T và bà Th. Tuy nhiên, việc ông T khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung với bà Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi chưa được Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc xác định phần sở hữu, sử dụng tài sản của ông T bà Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của hộ gia đình theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thi hành án dân sự là “chưa đủ điều kiện khởi kiện” và là trường hợp quy định về đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.

Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Tôi có quan điểm về việc áp dụng tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối với vụ việc trên như sau:
Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý vụ án yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Nguyễn Thị Th cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong vụ án bà Th là người có nghĩa vụ phải thi hành án khoảng tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) tiền trốn thuế và 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) tiền án phí theo bản án hình sự sơ thẩm số 80/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh G. Trong quá trình thụ lý Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trả lại đơn kiện cho nguyên đơn với lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện. Vì tài sản phải thi hành án là tài sản chung của hộ gia đình, khi thực hiện việc thi hành án Chấp hành viên chưa xác định phần sở hữu, sử dụng của ông T, bà Th và các con của Ông nên không đủ điều kiện khởi kiện. Xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự thì trong trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án tự thỏa thuận phân chia hoặc yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thi hành án dân sự quy định về kê biên tài sản, thì đối với tài sản thuộc sở hữu, quyền sử dụng đất của hộ gia đình Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên hộ gia đình. Nếu thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền khởi kiện ra tòa án yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung.
Căn cứ quy định và hướng dẫn trên có thể thấy quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự quy định về quyền khởi kiện của đương sự, nghĩa là người phải thi hành án, người liên quan không thỏa thuận phân chia tài sản chung để thi hành án thì có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung. Trong vụ án này ông Nguyễn Văn T là người liên quan đến việc thi hành án của bà Nguyễn Quý Th và là người sở hữu chung trong khối tài sản chung của hộ gia đình nên ông T có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục Tố tụng dân sự.
Còn quy định tại  điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 thì trong trường hợp đương sự không khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia thì Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự có quyền xác định phần sở hữu, sử dụng tài sản của vợ chồng để đảm bảo thi hành án, nếu đương sự không đồng ý với việc xác định phần sở hữu, sử dụng tài sản của vợ chồng thì có quyền khởi kiện và yêu cầu Tòa án phân chia.
Từ hai lý do trên có thể thấy: Ông Nguyễn Văn T là chủ sở hữu, sử dụng trong khối tài sản chung phải thi hành án của bà Nguyễn Thị Th. Giữa ông T, bà Th và các con của Ông Bà không thỏa thuận được việc phân chia tài sản để thi hành án nên viêc ông T khởi kiện yêu cầu phân chia là đúng trình tự thủ tục Tố tụng dân sự. Trong trường hợp nếu đương sự không khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia thì chấp hành viên có quyền phân chia nếu đương sự không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa là, người phải thi hành án, người liên quan không thỏa thuận phân chia tài sản chung để thi hành án thì có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung. Nếu các bên không thỏa thuận và cũng không khởi kiện để phân chia thì Chấp hành viên có quyền phân chia và đương sự nếu không đồng ý với việc phân chia của Chấp hành viên thì tiếp tục có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia chứ không phải bắt buộc Chấp hành viên phải phân chia thì đương sự mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trên đây, là quan điểm cá nhân của bản thân tôi trong quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật, mong nhận được ý kiến của quý đồng nghiệp và bạn đọc.
Trân trọng!

Tác giả bài viết: Bùi Ngọc Trung

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 2.5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập75
  • Hôm nay19,656
  • Tháng hiện tại321,346
  • Tổng lượt truy cập16,850,268
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây