Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và hướng hoàn thiện

Thứ hai - 09/05/2022 11:30 24.908 0
Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự là quan hệ cá nhân riêng tư giữa các bên nên sẽ do các bên tự do quyết định hoặc tự giải quyết mọi vấn đề, trong đó bao gồm cả việc phát sinh các tranh chấp.
Trong tố tụng dân sự, chứng minh là một dạng hoạt động tố tụng, cụ thể là hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện lại trước Tòa án vụ việc dân sự đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có thể, qua đó Tòa án có thể khẳng định có hay không có các sự kiện, tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong vụ, việc dân sự. Tuy nhiên, hoạt động sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự không thể được tiến hành một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Tòa án hay của các chủ thể tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố tụng cụ thể, bao gồm hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Tất cả các hoạt động này là các yếu tố hợp thành chứng minh hay nội dung của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự. Trong phạm vi bài viết, tác giả đi sâu về nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và hướng hoàn thiện quy định này.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”
Đây là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, gần như thể hiện bản chất khác nhau giữa tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Sẽ không có quy trình tố tụng dân sự, nếu như đương sự không tự mình quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự (trong khi đó, vụ án hình sự được khởi tố về cơ bản hoàn toàn nằm ngoài sự mong muốn hay quyết định của bị can).
Như vậy, Tòa án chỉ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật; đương sự chính là người khởi tạo quá trình tố tụng, theo đó khi tham gia tố tụng dân sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của họ là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng và xuất phát từ chính quyền tự do định đoạt của đương sự.
Khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.”
Nội dung xuyên suốt của nguyên tắc này là thu thập, giao nộp (hay cung cấp) chứng cứ vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự, cũng như mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án tuyên một bản án hoặc quyết định đúng pháp luật và phù hợp với thực tế khách quan, phù hợp với những chứng cứ đã thu thập, giao nộp và dùng để chứng minh trong quá trình tố tụng.
Trong tranh chấp dân sự Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phi chứng minh. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói một cách giản đơn là khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc ấy. Tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng của các đương sự và ở từng giai đoạn tố tụng cụ thể, các đương sự chứng minh có quyền, nghĩa vụ tham gia vào quá trình chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ việc ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Khi đưa ra yêu cầu thì nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để chứng minh, bởi vì bị đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Trong trường hợp đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ các chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó.
Trong tiến trình phát triển của hoạt động chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có thể di chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác; từ nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.
Đối với nguyên đơn: Kể từ khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu đối với nguyên đơn là nghĩa vụ. Bởi lẽ, nguyên đơn chính là chủ thể khởi xướng nên nguyên đơn phải là chủ thể đầu tiên thực hiện việc chứng minh. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực tế hoặc đưa ra những chứng cứ không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ.
Về phía bị đơn, họ là người bị kiện sẽ phát sinh nghĩa vụ đối với bị đơn nếu:
- Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có đúng đắn không? Khi đó nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó của bị đơn, đồng thời phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình;
Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn chỉ chấp nhận phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu đó hoặc không chấp nhận hoàn toàn) hoặc thậm chí chỉ trong trường hợp bị đơn đang nắm giữ chứng cứ liên quan đến nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ có nghĩa vụ, chứng minh cho yêu cầu ca mình là có căn cứ; kể cả trường hợp chủ thể này mặc dù không có yêu cầu độc lập, dù đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, cũng đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị đơn vì lợi ích của họ liên quan đến vụ kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà họ đứng về phía đương sự đó, hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ đối với một trong các bên đương sự; hoặc chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối về việc kiện đòi hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ.
Bên cạnh đó, Điều 91 quy định những trường hợp đương sự không phải chứng minh thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người, theo đó đương sự được loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh khi:
  • Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh được đảo ngược cho bên bị kiện - bên bị kiện phải chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. 
  • Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài ra, để tránh bỏ sót các trường hợp mà luật nội dung có quy định về trường hợp không phải chứng minh, Điều 91 có quy định một điều khoản “quét” với nội dung: “Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh”.
Điều 92 BLTTDS 2015 quy định về những tình tiết, sự kiện đương sự không phải chứng minh
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, khi những tình tiết, sự kiện mà đương sự đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của mình được các đương sự khác thừa nhận hoặc ngay bản thân tình tiết, sự kiện đó đã hàm chứa sẵn giá trị chứng minh thì đương sự có thể được loại trừ nghĩa vụ chứng minh. Thực tế, quy định này nhằm loại bỏ những hoạt động chứng minh không cần thiết có thể làm mất thời gian của đương sự và tòa án.
Thứ nhất, nhóm tình tiết, sự kiện mà bản thân nó đã chứa đựng sự thật khách quan, bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được tòa án thừa nhận (phải là những tình tiết, sự kiện có tính khách quan). Những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoặc những tình tiết, sự kiện đã được ghi nhận trong văn bản công chứng, chứng thực hợp pháp.
Thực tế cho thấy, do sai lầm trong hoạt động công chứng, chứng thực hoặc việc ngụy tạo văn bản công chứng, chứng thực đã làm cho giá trị khách quan của văn bản này không được bảo đảm. Để khắc phục hạn chế đó cũng như bảo đảm sự công bằng trong hoạt động chứng minh của nguyên đơn, Điều 92 BLTTDS 2015 bổ sung quy định: “Nếu có dấu hiệu nghi ngờ tính đúng đắn của văn bản công chứng, chứng thực thì thẩm phán có quyền yêu cầu đương sự hoặc cơ quan công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính”.
Thứ hai, là nhóm những tình tiết, sự kiện mà bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối (trong trường hợp vụ án có người đại diện tham gia thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện).
Hoạt động thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau:
Cung cấp chứng cứ là một trong các biện pháp chứng minh của đương sự: Việc xác định nghĩa vụ chứng minh của đương sự thông qua việc thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án được thể hiện rõ tại Điều 6 BLTTDS. Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ được thực hiện ngay từ khi khởi kiện, đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh bằng việc phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình theo quy định tại Điều 189 BLTTDS; bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có) theo quy định tại Điều 199 BLTTDS
Điều 96 quy định về việc đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự; quy định tại khoản 8 Điều 272 BLTTDS về việc người kháng cáo phải gửi cho Toà án tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) kèm theo đơn kháng cáo để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp... BLTTDS cũng đã có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn bảo đảm cho các đương sự chủ động thực hiện được quyền, nghĩa vụ chứng minh của họ trong các hoạt động nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Chẳng hạn, tại phiên tòa các bên đương sự được tham gia trình bày yêu cầu, bổ sung ý kiến, tham gia hỏi, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh xem xét vật chứng, tham gia tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của họ không hạn chế (từ Điều 247 đến Điều 260 BLTTDS)…
Để bảo đảm cho đương sự thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ, việc dân sự thì BLTTDS đã quy định về nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tại Điều 7, theo đó: cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự chứng cứ, tài liệu mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.
Đương sự chủ động trong hoạt động chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; ngoài ra để đương sự thực hiện hiệu quả hoạt động chứng minh BLTTDS đưa ra các công cụ hỗ trợ như: trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ; nguyên tắc về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự là cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết chấp nhận hoặc không chấp nhận các yêu cầu. Bằng năng lực bản thân và nhờ hỗ trợ của các công cụ khác theo quy định, trong trường hợp đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ các chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó theo quy định tại khoản 4 Điều 91 BLTTDS “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.”
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tạo cơ chế bình đẳng về địa vị pháp lý cho các đương sự tham gia tố tụng, cho phép các đương sự có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của mình. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự không chỉ đặt ra đối với đương sự đưa ra yêu cầu mà còn đối với đương sự phản đối yêu cầu. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác bỏ yêu cầu đó. Đương sự chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình bằng việc thu thập chứng cứ mọi lúc, mọi nơi, phù hợp với kế hoạch và điều kiện chủ quan của mình, không bị ràng buộc thúc ép hay phải tuân theo một sự chỉ đạo hay điều khiển của bất cứ cơ quan nào, tổ chức nào. Đương sự chỉ có một sức ép duy nhất là nếu trong thời hạn tố tụng được quy định mà không chủ động thu thập được các chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan thì có thể sẽ không chứng minh được yêu cầu của mình đã đề ra.
Hoàn thiện quy định pháp luật
Từ thực tiễn hiện nay trước tình hình thiên tai lũ lụt nghiêm trọng xảy ra ở một số địa phương thời gian qua và diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 hiện nay, nhất là trong bối cảnh thực hiện triệt để việc giãn cách, cách ly, nhiều vụ việc dân sự gặp khó khăn, bị trì hoãn do đương sự gặp khó khăn trong việc tham gia tố tụng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình. Nhiều vụ việc đã phải gia hạn thời hạn giải quyết, tuy nhiên đương sự vẫn không thể thực hiện được việc đưa ra các chứng cứ đầy đủ để giải quyết toàn diện, triệt để vụ việc. Hơn nữa, theo quy định của pháp luật thì khi đương sự không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình thì Tòa án đưa ra phán quyết trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập, điều này có thể gây bất lợi đối với đương sự. Hiện tại, không có quy định cho phép tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp “vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh”.
Thiết nghĩ, việc bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà đương sự không thể thực hiện được việc cung cấp chứng cứ chứng minh sẽ tạo cơ sở pháp lý làm căn cứ giải quyết những khó khăn, vướng mắc nêu trên; đồng thời, bảo đảm tốt hơn cho đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình trong các trường hợp này, bởi vì khi việc thu thập chứng cứ không thể tiến hành, hoạt động chứng minh chưa toàn diện vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh mà đương sự không thể thực hiện được việc cung cấp chứng cứ chứng minh thì theo yêu cầu của đương sự, cơ quan tiến hành xem xét để ra quyết định tạm đình chỉ để tiếp tục theo dõi, quản lý vụ việc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật; tránh việc giải quyết vụ việc không toàn diện, chưa đủ cơ sở.
Đồng thời, để bảo đảm áp dụng thống nhất, chặt chẽ, tránh lạm dụng, tạo thuận lợi cho việc thi hành cần có sự hướng dẫn cụ thể. Trên cơ sở đó, Tòa án sẽ phải cân nhắc, xem xét thận trọng khi quyết định áp dụng căn cứ này đối với từng trường hợp cụ thể, hạn chế tối đa việc ảnh hưởng đến giải quyết vụ việc khi được tiếp tục giải quyết./.

Tác giả bài viết: Lê Xuân Quang - Nguyễn Thị Tường Vi

 Tags: riêng tư

Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 1.5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập417
  • Hôm nay25,658
  • Tháng hiện tại165,768
  • Tổng lượt truy cập16,694,690
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây