Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

VKSND tỉnh Gia Lai đề nghị và được VKSND tối cao chấp nhận ban hành kiến nghị vi phạm trong bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

Thứ tư - 26/08/2020 02:34 1.931 0
Ngày 02/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã thụ lý và thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Nguyễn Lê Nhật Trường và Trần Thị Diệu Trúc phạm tội "Chứa mại dâm" và "Môi giới mại dâm" quy định tại Điều 327 và 328 Bộ luật Hình sự 2015.

Ngày 22/10/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã đưa vụ án ra xét xử và ban hành Bản án số 68/2018/HS-ST: Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 tuyên phạt bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường 10 năm tù.

Ngày 02/11/2018, bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường kháng cáo toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm, cho rằng các cơ tố tụng chưa xác định được người mua dâm, chỉ dựa vào lời khai của Hoàng Thị Quỳnh là chưa đủ cơ sở để kết tội; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại vụ án.

Ngày 17/4/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa phúc thẩm và ban hành Bản án số 114/2019/HS-PT, Quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 327; điểm s, điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường 05 (năm) tù về tội "Chứa mại dâm".

Qua nghiên cứu Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai thấy rằng Bản án phúc thẩm có một số sai lầm như sau:

Nội dung vụ án:

Khoảng 02 giờ ngày 07/6/2017, có ba người khách nam giới vào khách sạn Hoàng Hảo II do Nguyễn Lê Nhật Trường  làm lễ tân kiêm bảo vệ để thuê phòng nghỉ. Trường cho khách thuê các phòng 404, 301 và 303 với giá 200.000đ/phòng. Sau khi nhận phòng, có 02 người  xuống quầy lễ tân gặp Trường yêu cầu gọi gái bán dâm đến phòng 301 và 303 để mua dâm. Trường đồng ý và thỏa thuận số tiền mua dâm một người là 1.000.000đ (một triệu đồng) thì hai người đồng ý và lấy 2.000.000đ (hai triệu đồng) đưa cho Trường. Do quen biết Trần Thị Diệu Trúc vào khoảng tháng 4/2017, Trúc có nói Trường khi nào có khách mua dâm thì gọi cho Trúc nên Trường gội điện cho Trúc, hai bên thỏa thuận giá 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) một người bán dâm. Sau đó, Trúc nói Phượng qua nhà Trúc chở Hoàng Thị Quỳnh đến khách sạn Hoàng Hảo II để bán dâm.

Phượng đi xe taxi đến nhà Trúc rồi Phượng điều khiển xe mô tô 81B1 - 271.30 chở Quỳnh đến khách sạn Hoàng Hảo II. Khi đến nơi Phượng được Trường chỉ phòng 301 và 303 là nơi có khách đợi mua dâm. Phượng vào phòng 301 bán dâm cho khách còn Quỳnh vào phòng 303. Đến 05 giờ cùng ngày, Phượng gõ cửa gọi Quỳnh dậy, Phượng xuống quầy lễ tân gặp Trường lấy 1.400.000đ (một triệu bốn trăm ngàn đồng) rồi chở Quỳnh về nhà trọ của Trúc đưa cho Trúc số tiền 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) là số tiền bán dâm của Quỳnh. Còn số tiền Phượng bán dâm được, Phượng tự giữ.

Khoảng 01 giờ sáng ngày 08/6/2017, Quỳnh gọi điện cho bạn tên Huỳnh Ngọc Linh nói Quỳnh bị bắt viết giấy nợ và ép đi bán dâm, không cho về. Ngay sau đó, Linh đã thông báo cho bà Ma Thị Vàng là mẹ của Quỳnh biết. Đến sáng ngày 08/6/2017, bà Ma Thị Vàng tới Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku trình báo sự việc trên. Sau khi nhận được tố giác của bà Vàng, Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku đi kiểm tra hành chính tại nhà trọ Trúc thuê. Tại thời điểm đó tại nhà trọ Trúc thuê có Quỳnh và Huỳnh Quang Trí. Công an Phường Phù Đổng đã mời Quỳnh và Trí về Công an phường Phù Đổng làm việc. Tại Công an phường Phù Đổng, Quỳnh đã làm đơn trình báo về hành vi môi giới mại dâm của Trúc và hành vi bán dâm của mình tại Khách sạn Hoàng Hảo II vào 02 giờ sáng ngày 07/6/2017.

Ngày 09/06/2017, Trần Thị Diệu Trúc đến Công an phường Phù Đổng đầu thú về hành vi phạm tội của mình.
Ngày 10/6/2017, Công an phường Phù Đổng mời Trường lên làm việc. Tại đây, Trường đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Do không xác định được chính xác ngày tháng năm sinh của Hoàng Thị Quỳnh nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 30 ngày 06/12/2017: Trưng cầu Phân viện khoa học hình sự (C54C) tại thành phố Đà Nẵng: Xác định ngày tháng năm sinh (tuổi thật) của cháu Hoàng Thị Quỳnh.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 894/C54C ngày 25/12/2017 của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng kết luận độ tuổi của Hoàng Thị Quỳnh: “Tại thời điểm giám định (tháng 12 năm 2017) là: Từ 16 năm đến 16 năm 6 tháng”.

Vi phạm:

- Thứ nhất, "Theo kết luận giám định Hoàng Thị Quỳnh vào thời điểm bán dâm từ 15 tuổi 05 tháng 17 ngày đến 15 tuổi 11 tháng 17 ngày (dưới 16 tuổi). Tuy nhiên, qua xem xét lại thời điểm giám định là tháng 12 năm 2017; do không xác định được ngày nên phải áp dụng theo hướng có lợi về cách tính độ tuổi cho bị cáo. Do vậy cần tính từ thời điểm là ngày 01/12/2017, trừ lùi lại thời điểm bán dâm là ngày 07/6/2017 thì Hoàng Thị Quỳnh đã đủ 16 tuổi 07 ngày".
+ Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời điểm giám định đối với Hoàng Thị Quỳnh từ ngày 01/12/2017 là chưa chính xác vì tại dòng thứ 24 của Bản kết luận giám định pháp y độ tuổi số 894/C54C(Đ5) ngày 25/12/2017 của Phân viện KHHS tại Đà Nẵng đã ghi rõ: "Thời gian giám định: Bắt đầu ngày 20.12.2017; kết thúc ngày 25.12.2017."; tức là từ ngày 20/12/2017 đến ngày 25/12/2017, độ tuổi Hoàng Thị Quỳnh từ 16 năm đến 16 năm 6 tháng. Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã tính tuổi của bị cáo Quỳnh từ ngày 20/12/2017 và trừ lùi lại thời điểm bán dâm thì Hoàng Thị Quỳnh từ 15 tuổi 05 tháng 17 ngày đến 15 tuổi 11 tháng 17 ngày là đã theo hướng có lợi cho bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường. Vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm nhận định không xác định được ngày giám định và tính thời điểm là ngày 01/12/2017 là chưa chính xác và dẫn đến việc xét xử bị cáo Trường từ khoản 3 xuống điểm b, khoản 2 Điều 327 với tình tiết "Cưỡng bức mại dâm"  là chưa phù hợp.

- Thứ hai, Về tình tiết "Phạm tội hai lần": Tòa án cấp phúc thẩm nhận định "Quá trình lấy lời khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm mới chỉ hỏi bị cáo Trường "thu bao nhiêu tiền", bị cáo trả lời "thu 02 người/02 triệu đồng", chưa làm rõ cả hai người cùng trả tiền hay chỉ một người đứng ra trả tiền. Tại phiên tòa phúc thẩm khi hỏi về vấn đề này bị cáo khai "Hai người cùng xuống hỏi có gái bán dâm không nhưng chỉ một người đứng ra trả tiền, còn ai là người trả tiền do lâu rồi bị cáo không nhớ"; vì vậy, xác định bị cáo Trường phạm tội 02 lần là không đúng".
+ Theo quy định tại điểm b, tiểu mục 4.1, Mục 4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, quy định trường hợp "phạm tội nhiều lần" đối với hành vi "Chứa mại dâm" như sau: "Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian". Trong thời gian quản lý khách sạn, bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường đã gọi 02 gái bán dâm đến bán dâm cho hai khách ở hai phòng khác nhau là 301 và 303 của khách sạn Hoàng Hảo II; việc này đồng nghĩa với việc có hai đối tượng đang thực hiện việc bán dâm cho khách và hai khách này là người mua dâm; đây cũng là cách hiểu tại mục 2, phần I của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính: "tình tiết định khung tăng nặng “chứa mại dâm 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 và “đi với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đối với người bán dâm". Mặt khác ý chí mua dâm của hai đối tượng được thể hiện ở việc cùng hỏi bị cáo Trường về việc bán dâm và mua dâm. Do đó bị cáo Trường đã chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian và là trường hợp "phạm tội nhiều lần"; nay được quy định là "Phạm tội hai lần trở lên". Việc Tòa án cấp phúc thẩm nhận xét việc chỉ có một người trả tiền nên bị cáo không thuộc trường hợp phạm tội hai lần là chưa phù hợp với quy định pháp luật.

- Thứ ba, "Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Trường đã ra đầu thú và tự thú khai nhận về hành vi phạm tội của mình nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là có thiếu sót". Việc Hội đồng xét xử tòa án nhân dân cấp cao nhận định như vậy là chưa chính xác, vì theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015: "Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện" nhưng trong trường hợp này, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Lê Nhật Trường đã bị Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai phát hiện thông qua đơn tố cáo của mẹ Hoàng Thị Quỳnh là bà Ma Thị Vàng và lời khai của Hoàng Thị Quỳnh (người bán dâm) khi làm việc với Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Đồng thời ngày 09/6/2017, Trần Thị Diệu Trúc (người môi giới mại dâm) đã đến Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo Trúc và bị cáo Trường. Đến ngày 10/6/2017, bị cáo Trường mới ra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội. Việc khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo chỉ thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải chứ không phải là tính tiết "người phạm tội tự thú" như nhận định của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Vì vậy, Tòa án nhân dân cấp cao Đà Nẵng nhận định bị cáo Trường có tình tiết giảm nhẹ là tự thú là chưa phù hợp với quy định pháp luật.
         
Ngày 07/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã ban hành công văn số 433/VKS-P2 đề nghị xem xét lại Bản án Phúc thẩm số 114/2019/HS-PT ngày 17/4/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và Vụ 7 Viện kiểm sát nhân tối cao xem xét, đánh giá.
         
Ngày 04/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có công văn số 5854/VKSTC-V7 chấp nhận việc Tòa án cấp phúc thẩm đã có những sai lầm, thiếu sót trong việc xác định tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Lê Nhật Trường như nhận định của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai.
         
Ngày 12/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành kiến nghị số 3254/VKSTC-V7 kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chỉ đạo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử; bảo đảm đúng quy định pháp luật và không để vi phạm tương tự xảy ra đối với những sai phạm trên.
         
Qua đây có thể thấy rằng, công tác kiểm sát và kiểm tra bản án trong ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã được thực hiện tốt, nghiêm túc và đầy đủ. Có thể nói đây là cơ sở để có thể kịp thời phát hiện những sai phạm của Tòa án nhằm báo cáo Lãnh đạo và Viện kiểm sát cấp trên tiến hành kiến nghị khắc phục vi phạm hoặc kháng nghị khi có những sai phạm nghiêm trọng xảy ra; đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh thống nhất./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Ánh Phổ

Tổng số điểm của bài viết là: 8 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 4 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập48
  • Hôm nay8,611
  • Tháng hiện tại795,578
  • Tổng lượt truy cập16,490,344
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây