Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Một số giải pháp nâng cao kỹ năng bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát thông qua “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa”

Thứ tư - 09/12/2020 04:26 1.674 0
Vị trí, vai trò, hình ảnh, uy tín của ngành Kiểm sát, của Kiểm sát viên được thể hiện rõ nét nhất thông qua hoạt động tranh tụng trực tiếp, công khai, dân chủ tại phiên tòa; trong đó chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên là yếu tố mang tính quyết định
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự là vấn đề cần thường xuyên quan tâm. Trọng tâm là các hoạt động nâng cao chất lượng tranh tụng, bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát thông qua “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa” theo tinh thần Chỉ thị 01/CT-VKSTC ngày 17 tháng 12 năm 2019.
         
Để thực hiện tốt chỉ thị trên, ngay từ tháng 1/2020, VKSND huyện Kông Chro (Gia Lai) đã phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án hình sự đầu tiên thông qua “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa” (vụ án Đinh Nhât về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự). Sau khi phiên tòa kết thúc, đơn vị đã tiến hành rút kinh nghiệm, chia sẻ cách làm số hóa hồ sơ vụ án hình sự và được VKSND tỉnh Gia Lai ban hành thông báo, giới thiệu phương pháp, cách làm hay, nhân rộng điển hình để các đơn vị khác cùng học tập, tham khảo, vận dụng. Đến nay, VKSND huyện Kông Chro đã tổ chức được 12 phiên tòa theo tinh thần Chỉ thị 01/CT-VKSTC (đạt 100% vụ án hình sự đã xét xử của đơn vị). Để có được những thành quả trên, cũng như bảo vệ thành công cáo trạng của Viện kiểm sát, đơn vị xin chia sẻ một số kinh nghiệm sau: 


Toàn cảnh 01 phiên tòa rút kinh nghiệm có áp dụng “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa”

Một là, tăng cường quản lý, chỉ đạo hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên, đặc biệt là tranh luận, đối đáp thông qua “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa”.
Với tinh thần "Quản lý, chỉ đạo tốt, chất lượng tranh tụng sẽ tốt”, lãnh đạo đơn vị luôn cân nhắc theo từng trường hợp để lựa chọn, phân công KSV có năng lực, kinh nghiệm phù hợp với tính chất, mức độ, nội dung vụ án; đồng thời theo sát, chỉ đạo nghiệp vụ đối với KSV ngay từ giai đoạn đầu của tố tụng hình sự, bảo đảm đầy đủ các chứng cứ phải chứng minh tại Điều 85 BLTTHS. Đối với các vụ án phức tạp, cần chọn KSV giỏi, cần tạo điều kiện để Kiểm sát viên “số hóa” toàn bộ các tài liệu chứng minh vụ án càng sớm càng tốt, để có đủ thời gian nắm chắc, làm chủ hồ sơ Số hóa vụ án, từ đó làm tốt nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa.

Hai là, Kiểm sát viên phải đảm bảo “ Công tố trong giai đoạn điều tra tốt, tranh tụng tại phiên tòa sẽ tốt”
Ngay sau khi thụ lý kiểm sát hồ sơ tin báo, tố giác hoặc hồ sơ vụ án, KSV phải theo sát tiến trình điều tra gắn công tố trong hoạt động điều tra; chủ động đề ra yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ, tham gia đầy đủ 07 hoạt động điều tra đó là: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và thực nghiệm điều tra để nắm chắc, làm chủ hệ thống chứng cứ, tài liệu phục vụ hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Kiểm sát viên phải thường xuyên bám sát hoạt động điều tra, thường xuyên báo cáo lãnh đạo viện theo quy định, nhằm giúp lãnh đạo viện nắm bắt cả các thông tin, chỉ đạo kịp thời, ban hành những yêu cầu điều tra có chất lượng, để điều tra giải quyết vụ án toàn diện, khách quan, những tài liệu thu thập được thông qua yêu cầu điều tra (đã được số hóa), sẽ bổ trợ cho hoạt động tranh tụng, công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh và xử lý các tình huống phát sinh tại phiên tòa…Nếu chất lượng những hoạt động này tốt thì khả năng làm chủ số hóa hồ sơ của KSV trong tranh tụng sẽ tốt, tình huống phát sinh tại phiên tòa ít xảy ra; hệ thống chứng cứ do KSV công bố và dùng để buộc tội đầy đủ, chắc chắn và tính thuyết phục cao, hạn chế tối đa việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc xử hủy án để điều tra lại. Ngoài ra, việc kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra thông qua số hóa hồ sơ như sử dụng chức năng Hyperlink để lưu trữ những tài liệu đề ra trong yêu cầu điều tra sẽ phát hiện, ngăn ngừa hoặc khắc phục sớm những vi phạm pháp luật tố tụng nghiêm trọng làm mất đi hoặc giảm sút đáng kể giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho KSV hạn chế hoặc không phải tranh luận, đối đáp về những vi phạm tố tụng mà người bào chữa, người tham gia tố tụng thường đưa ra tại phiên tòa.


Kiểm sát viên thự hiện số hóa hồ sơ tại một phiên tòa rút kinh nghiệm

Ba là, Kiểm sát viên phải phải làm chủ hồ sơ số hóa, tổng hợp, phân tích đánh giá chứng cứ, xây dựng cáo trạng, đề cương xét hỏi.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ kết thúc điều tra đề nghị truy tố từ Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên (KSV) nghiên cứu hồ sơ vụ án phải làm chủ số hóa hồ sơ,  tổng hợp, phân tích và đánh giá toàn diện các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vấn đề dân sự, xử lý vật chứng (nếu có), quan điểm của người bào chữa trong quá trình điều tra... Đây là yêu cầu rất quan trọng để KSV nắm chắc quá trình điều tra hồ sơ số hóa đã đầy đủ hay chưa, còn thiếu vấn đề gì cần bổ sung không. Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV cần có "bản tổng hợp chứng cứ trên nền tảng Microsoft Excel” (bảng tổng hợp trên được liên kết với những tài liệu đã scan thông qua chức năng Hyperlink, nếu có mâu thuẫn hoặc thiếu chứng cứ nào thì đánh dấu hoặc ghi chú lại để tổng hợp và kịp thời xử lý. Bên cạnh đó, KSV cần nghiên cứu, nắm vững quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các luật chuyên ngành để đánh giá việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đã đúng tội danh, khung, khoản của điều luật hay chưa, các thủ tục tố tụng đã đúng và đầy đủ chưa. Nếu phát hiện có nội dung cần phải bổ sung, khắc phục thì KSV phải chủ động, nhanh chóng tự mình hoặc phối hợp với Điều tra viên để thực hiện.
Trước khi đề xuất việc truy tố, KSV cần xem xét trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hai, người làm chứng để củng cố chứng cứ, tài liệu cũng như để kiểm tra lại tài liệu mà hồ sơ đã số hóa, đồng thời đánh giá lại kết quả điều tra do Điều tra viên thực hiện trong trường hợp cần thiết thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án.

Khi thấy các tài liệu, chứng cứ đã số hóa được thu thập khách quan, toàn diện và đầy đủ, hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm, các thủ tục tố tụng được thực hiện đúng quy định của pháp luật thì KSV đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về việc truy tố bị can và xây dựng cáo trạng. Kiểm sát viên xây dựng cáo trạng phải 1 bảo đảm logic về hình thức, chặt chẽ về nội dung. Cáo trạng nêu ngắn gọn về hành vi phạm tội, thể hiện tính khái quát cao và nêu bật được toàn bộ hành vi phạm tội của các bị can, có viện dẫn chứng cứ trọng yếu và căn cứ pháp luật (lưu ý cáo trạng khi số hóa trên máy thì sử dụng chức năng Hyperlink để liên kết các chứng cứ tài liệu kèm theo). Đối với vụ án phức tạp thì không nhất thiết phải đánh số bút lục cũng như chỉ rõ hết các chứng cứ, căn cứ pháp luật để chứng minh mà để dành những nội dung này khi đối đáp, tranh luận, bảo vệ quan điểm truy tố của VKS tại phiên tòa chúng ta sẽ công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa bằng chức năng Hyperlink đã nêu trên.
Khi xây dựng đề cương xét hỏi thông qua hồ sơ số hóa, KSV phải bám sát vào nội dung vụ án, vào tài liệu hồ sơ đã số hóa, nên chia tài liệu số hóa thành từng mục khác nhau để làm rõ vai trò của từng bị cáo; câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, đi vào trọng tâm từng vấn đề, không đặt câu hỏi mang tính tổng hợp, dàn trải nhằm hạn chế việc bị cáo lợi dụng để trả lời dài dòng, vòng vo, không tập trung vào trả lời câu hỏi. Đối với những vấn đề còn có mâu thuẫn, bị cáo không nhận tội, KSV công bố trình chiếu, bút lục, các tài liệu liên quan đến việc buộc tội làm cơ sở đấu tranh tại phiên tòa, dự kiến hết các tình huống phát sinh tại phiên tòa để bảo đảm tính chủ động của KSV trong quá trình tranh luận (lưu ý khi dự kiến tình huống phát sinh KSV nên kèm theo dự kiến các tài liệu đã được số hóa để chứng minh).

Điển hình như vụ án T và 06 đồng phạm khác bị Viện KSND huyện Kông Chro truy tố về tội “Hủy hoại tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản”. Vụ án này có sự tham gia bào chữa của Luật sư. Quá trình điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và vai trò đồng phạm của từng bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa xét xử bị cáo T không thừa nhận vai trò đồng phạm của mình là người khởi xướng và về mặt tội danh, Luật sư bào chữa của các bị cáo cho rằng hành vi của các bị cáo đã được thu hút chỉ phạm vào 01 tội là “Hủy hoại tài sản” mà không phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” như Viện kiểm sát đã truy tố. Tình huống này đã được Kiểm sát viên dự kiến từ trước là có thể phát sinh tại phiên tòa xét xử và để giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm, Kiểm sát viên đã thực hiện “số hóa hồ sơ vụ án”, chuẩn bị đầy đủ kế hoạch xét hỏi, chọn lọc các tài liệu, chứng cứ để thực hiện “công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa” khi tiến hành tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án. Theo đó, tại phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả xét hỏi các bị cáo khác, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho công bố bằng hình ảnh các tài liệu, chứng cứ là lời khai của những người làm chứng (xin vắng mặt tại phiên tòa) ở giai đoạn tố tụng trước, lời khai của bị cáo T ở giai đoạn điều tra, truy tố để chứng minh hành vi phạm tội, tội danh của bị cáo T và các bị cáo khác; đồng thời các chứng cứ khác như bản ảnh, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá cũng được Kiểm sát viên công bố bằng hình ảnh tại phiên tòa để lập luận, đối đáp đến cùng ý kiến tranh luận của Luật sư về tội danh. Với kỹ năng, lập luận tranh tụng sắc bén, cùng với sự bổ trợ rất hiệu quả từ hoạt động “Số hóa hồ sơ, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa” trong vụ án này, Kiểm sát viên đã chứng minh, làm rõ hành vi phạm tội, tội danh, vai trò của bị cáo T và các bị cáo khác trong vụ án. Hội đồng xét xử đã ra bản án tuyên bố bị cáo T và 06 bị cáo khác phạm tội “Hủy hoại tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản” như Viện kiểm sát đã truy tố và xác định rõ vai trò khởi xướng của bị cáo T cũng như vai trò của các bị cáo khác như quan điểm truy tố, luận tội, đề nghị của Viện kiểm sát để tuyên phạt mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của từng bị cáo.


Một buổi họp rút kinh nghiệm sau khi tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm “số hóa” giữa 02 ngành Kiểm sát- Tòa án tại đơn vị

Bốn là, phối hợp tốt với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan liên quan đến hoạt động xét xử:
Lãnh đạo, KSV cần thường xuyên trao đổi với lãnh đạo Cơ quan điều tra và Điều tra viên về những vấn đề mới phát sinh của vụ án; phối hợp xác minh làm rõ và bổ sung kịp thời, không để chứng cứ thiếu hoặc yếu, đối với những vụ án phức tạp có thể họp lãnh đạo 02 ngành hoặc 03 ngành để cùng trao đổi, nắm chắc những nội dung liên quan, nhất là những vấn đề còn khó khăn vướng mắc giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật, cũng như đảm bảo ổn định tình hình chính trị địa phương.  Vì vậy để quyết định truy tố của VKS đi vào thực tiễn, KSV không chỉ chủ động nghiên cứu, báo cáo những khó khăn với lãnh đạo viện trong giai đoạn điều tra, mà KSV cần thường xuyên trao đổi quá trình chuẩn bị xét xử, chủ động phối hợp với Thẩm phán về dự liệu các tình huống phức tạp có thể phát sinh; rà soát chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã số hóa. Đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo Tòa án cùng cấp về công tác chuẩn bị xét xử, dự kiến các tình huống phát sinh, cách xử lý các tình huống đó, cùng tham gia theo dõi phiên tòa để phối hợp chỉ đạo việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Đối với các vụ án phức tạp, các vụ án trọng điểm cấp ủy địa phương theo dõi, các vụ án dư luận quần chúng quan tâm... thì trước khi xét xử, VKS cùng với Tòa án cần trao đổi, tranh thủ ý kiến chỉ đạo

Năm là, tạo điều kiện để người bào chữa tham gia sớm và thực hiện đầy đủ quyền của họ theo quy định pháp luật.
Kiểm sát viên phải bảo đảm cho người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tham gia các hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai những người tham gia tố tụng, thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu …theo quy định tại Điều 73 BLTTHS sẽ nâng cao tính thận trọng, tuân thủ pháp luật của những người tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, hạn chế vi phạm thủ tục tố tụng; tạo điều kiện để người bào chữa nghiên cứu hồ sơ, có mặt trong giai đoạn điều tra vụ án; tôn trọng và xem xét đầy đủ, kịp thời ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm việc điều tra, thu thập chứng cứ khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Khi đó việc trình chiếu các chứng cứ trực tiếp này sẽ mang lại hiệu ứng cao hơn. Hạn chế thấp nhất các trường hợp Tòa án tuyên khác tội danh Viện kiểm sát đã truy tố; không để xảy ra việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội.
      
Sáu là, kỹ năng sử dụng “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự, công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa” của KSV.
Trước khi đưa vụ án ra xét xử Kiểm sát viên phải làm chủ được hồ sơ số hóa của mình, tại phiên tòa Kiểm sát viên phải bình tĩnh, tự tin khi tranh luận, bởi các quan điểm, lập luận, nhận định của KSV đều được Luật sư, bị cáo, người tham gia tố tụng khác phân tích, mổ xẻ, bắt bẻ, dễ làm cho KSV lúng túng tại phiên tòa. Do vậy, nếu KSV hoàn toàn làm chủ hồ sơ số hóa, bình tĩnh, tự tin thì trước những luận cứ mà Luật sư, bị cáo, người tham gia tố tụng khác đưa ra KSV sẽ hiểu được nội hàm của luận cứ, từ đó đưa ra các lập luận, kèm theo công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa (các chứng cứ trực tiếp vững chắc, mang tính khoa học như kết luận giám định, lời khai của bị cáo có sự tham gia của luật sư, người trợ giúp pháp lý,..) Thực tế cho thấy hầu hết các vụ án nếu sử dụng các chứng cứ trực tiếp trong công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa sẽ mang lại hiệu ứng cao trong tranh luận và đảm bảo tính có căn cứ trong quyết định truy tố.

Tác giả bài viết: Lê Xuân Quang

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập74
  • Hôm nay15,901
  • Tháng hiện tại261,835
  • Tổng lượt truy cập16,790,757
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây