Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Chấp nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án

Thứ hai - 10/10/2016 21:25 1.631 0
Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang đã kịp thời phát hiện vi phạm, ban hành Kháng nghị phúc thẩm, được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai trích đăng để bạn đọc cùng tham khảo:

Kỳ 5: Vụ án: “Kiện đòi nợ” giữa nguyên đơn bà V và bị đơn ông T bà B do Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang kháng nghị phúc thẩm.

Nội dung vụ án: Ngày 26/12/2012 (âm lịch) vợ chồng ông T, bà B vay tiền của bà V số tiền 250.000.000 đồng, thời hạn vay 03 tháng. Quá hạn trả nợ, ông T, bà B vẫn không chịu trả. Đến ngày 28/06/2013, ông T cắt khẩu tại huyện Kbang, rồi cùng bà B chuyển đi sinh sống ở nơi khác (chưa xác định được địa chỉ). Sau một thời gian không thấy ông T, bà B thì bà V mới biết vợ chồng T - B đã đi khỏi địa phương.
Ngày 24/09/2015, bà V khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kbang giải quyết buộc ông T và bà B phải trả số tiền nợ  250.000.000 đồng. Tòa án đã thụ lý vụ án để giải quyết theo yêu cầu khởi kiện của bà V.
Trong đơn khởi kiện, bà V ghi địa chỉ của bị đơn là Tổ 12, thị trấn Kbang, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai nhưng ông T đã chuyển hộ khẩu đi nơi khác từ năm 2013, còn bà B thì không có hộ khẩu ở huyện Kbang và cũng không còn cư trú ở huyện Kbang. Do vậy, theo yêu cầu của bà V, Tòa án nhân dân huyện Kbang đã tiến hành thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với ông T và bà B. Thông báo này được phát trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam liên tục trong 03 ngày từ 01/11 đến 03/11/2015 và đăng báo Công lý 03 số liên tiếp (số 86,87,88), nhưng không có kết quả.
Tại bản án sơ thẩm số 06/2016/DS/ST ngày 17/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V, buộc ông T và bà B phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 250.000.000 đồng.
Nhận thấy quyết định của bản án sơ thẩm là chưa khách quan, không đảm bảo quyền lợi của đương sự và có nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, ngày 06/6/2016 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN/VKS-DS đối với bản án sơ thẩm trên theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử huỷ toàn bộ án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kbang huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Các vi phạm bị kháng nghị hủy án và những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

1. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thụ lý vụ án và thông báo thụ lý vụ án.  
Theo xác nhận của Công an thị trấn Kbang thì ông T không nhập khẩu về địa chỉ xin nhập, còn bà B có hộ khẩu thường trú tại xã K, huyện V, tỉnh Nam Định. Nhưng cả ông T và bà B đều không có mặt tại Nam Định.
Như vậy, đơn khởi kiện của bà V đối với ông T và bà B như đã nêu trên thuộc trường hợp “chưa có đủ điều kiện khởi kiện”. Lẽ ra Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho bà V mới đúng quy định của pháp luật, nhưng Tòa án vẫn thụ lý, xét xử vụ kiện này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 169 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung 2011 (nay là điểm b khoản 1 điều 192; khoản 2 điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) và Điều 8, Điều 9 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ:
Việc Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú của bị đơn trên phương tiện thông tin đại chúng và tiếp nhận tài liệu do Công an thị trấn Kbang cung cấp thông tin về ông T và bà B là thuộc trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ, nhưng không thông báo cho Viện kiểm sát huyện Kbang cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại Khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (nay là Khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án không có biên bản xác minh hay bất cứ tài liệu nào liên quan đến tài sản của ông T và bà B hiện tại có ở huyện Kbang. Như vậy, khi không xác định được tài sản nào của ông T và bà B tại huyện Kbang, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông T và bà B phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 250.000.000 đồng là hoàn toàn không có cơ sở để thi hành án./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Phương Linh

Tổng số điểm của bài viết là: 7 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 2.3 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập66
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm65
  • Hôm nay4,900
  • Tháng hiện tại135,857
  • Tổng lượt truy cập16,664,779
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây