Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai

https://vksnd.gialai.gov.vn


Trao đổi về tình tiết “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Trước tiên, cho phép tác giả đi vào một số quy định của pháp luật Thi hành án dân sự liên quan đến xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án.
Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự quy định: Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Theo đó có thể thấy, quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc phân chia tài sản chung phát sinh sau khi được thông báo của Chấp hành viên về việc các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung.
          Khoản 2 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Theo đó, quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung phát sinh sau khi nhận được thông báo của Chấp hành viên về việc các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 Luật thi hành án dân sự hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc phân chia tài sản chung.
Điểm b, c khoản 2 Điều 24 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thi hành án dân sự quy định trường hợp cụ thể về xử lý tài sản chung đối với tài sản chung của vợ, chồng hoặc của hộ gia đình:
b) Trường hợp người phải thi hành án có chung tài sản với người khác mà đã xác định được phần tài sản, quyền tài sản của từng người thì Chấp hành viên kê biên phần tài sản, quyền tài sản của người phải thi hành án để thi hành án theo quy định tại Khoản 2 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự; trường hợp chưa xác định được phần quyền của người phải thi hành án thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp quy định tại Điểm c Khoản này;
c) Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết.
Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.
Như vậy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì đối với tài sản chung của vợ, chồng hoặc của hộ gia đình thì Chấp hành viên có quyền phân chia và phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được biết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ của Chấp hành viên về kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng của vợ, chồng hoặc các thành viên hộ gia đình; nếu không đồng ý thì đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu cầu phân chia tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Áp dụng với tình huống pháp lý mà tác giả Bùi Ngọc Trung đưa ra: Ngày 24/6/2021, Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý vụ án dân sự số 93/2021/TLST-HNGĐ về giải quyết yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bị đơn bà Nguyễn Thị Th. Ông T yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của Ông với bà Th cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bà Th. Bà Th là người phải thi hành án 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) tiền trốn thuế và 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) án phí theo Bản án hình sự sơ thẩm số 80/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh G.
Vận dụng quy định pháp luật tại điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thi hành án dân sự, thấy rằng ông T chỉ có quyền khởi kiện sau khi nhận được thông báo hợp lệ của Chấp hành viên và không đồng ý về kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng của vợ, chồng hoặc các thành viên hộ gia đình, thời hạn thực hiện quyền khởi kiện là 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.
Do vậy, việc Tòa án nhân dân tỉnh G cho rằng việc ông T khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung với bà Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi chưa được Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc xác định phần sở hữu, sử dụng tài sản của ông T bà Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của hộ gia đình theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thi hành án dân sự là “chưa đủ điều kiện khởi kiện” và là trường hợp quy định về đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên ra đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
Trên đây là quan điểm cá nhân của tác giả về giải quyết tình huống pháp lý liên quan đến quyền khởi kiện mà tác giả Bùi Ngọc Trung đưa ra./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Tường Vi

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây