Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai

https://vksnd.gialai.gov.vn


Việc Xác định tư cách tố tụng đối với một người bị thiệt hại về tài sản trong vụ án hình sự từ lý luận đến thực tiễn

Việc xác định tư cách tố tụng trong một vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách toàn diện, triệt để. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc xác định tư cách tố tụng đối với một người bị thiệt hại về tài sản hoặc liên quan đến tài sản trong vụ án hình sự lại chưa đồng nhất.

Xác định đúng tư cách tố tụng của một người trong một vụ án hình sự là tiền đề giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các quy định pháp luật có liên quan. Việc xác định sai tư cách của người tham gia tố tụng sẽ dẫn đến quyết định sai về phần trách nhiệm dân sự, về quyền kháng cáo … sẻ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của họ và làm cho việc giải quyết vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc xác định tư cách tố tụng của một người bị thiệt hại về tài sản trong một vụ án hình sự là người bị hại hay nguyên đơn dân sự hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc là người làm chứng đang có nhiều quan điểm khác nhau, không đồng nhất giữa những người tiến hành tố tụng, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như giữa đơn vị, địa phương này với đơn vị, địa phương khác.
         
Theo quy định tại Điều 55 BLTTHS năm 2015 thì có 20 loại người tham gia tố tụng trong các giai đoạn tố tụng khác nhau của một vụ án hình sự. Trong đó, chủ yếu những người sau đây tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự: Bị cáo, Bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án, Người làm chứng, Người phiên dịch, Người bào chữa, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự và Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của BLTTHS”.
         
Việc quy định phân biệt tư cách của những người tham gia tố tụng trong BLTTHS năm 2015 được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc giải quyết dân sự trong vụ án hình sự. Tư cách tố tụng được xác định về bản chất từ góc độ tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Để xác định đúng tư cách tố tụng tại phiên tòa từ thực tiễn xét xử thông thường được thực hiện theo các căn cứ sau:
         
Căn cứ vào các quy định của BLTTHS về những người tham gia tố tụng bao gồm: Bị cáo (Điều 61), Bị hại (Điều 62), Nguyên đơn dân sự (Điều 63), Bị đơn dân sự (Điều 64), Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 65)…
         
Căn cứ vào các quy định của BLTTHS về việc bồi thường hay trả lại tài sản; quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) về việc bồi thường thiệt hại.
         
Căn cứ vào bản chất của tội phạm được thực hiện thì tùy theo khách thể của tội phạm, đối tượng của tội phạm, chủ thể của tội phạm là ai để xác định có bị thiệt hại hay không; có bồi thường ngoài hợp đồng hay không và bồi thường như thế nào; ai là nguyên đơn, bị đơn dân sự…
         
Bị hại: Tại Điều 62 BLTTHS quy định: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì bị hại chỉ có thể là cá nhân hoặc là người đại diện hợp pháp của người đó. Nhưng BLTTHS năm 2015 đã quy định mới về bị hại, bao gồm cả cá nhân, cơ quan và tổ chức.
         
Bị hại bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp hay nói cách khác đối tượng mà tội phạm hướng tới là bị hại. Bị hại bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp có nghĩa là thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả của tội phạm. Nhưng thực tiễn cho thấy đối với cơ quan, tổ chức là bị hại thì không nhất thiết phải bị thiệt hại trực tiếp, mà có thể bị thiệt hại gián tiếp. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy thì rất khó để phân biệt bị hại với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự khi cơ quan, tổ chức bị gây thiệt hại. Cùng với thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, bị hại còn có thể bị gây thiệt hại gián tiếp. Ví dụ: Bị hại trong vụ cố ý gây thương tích, ngoài thiệt hại trực tiếp về tổn thương cơ thể, chi phí điều trị, tổn thất về tinh thần; còn có thể bị gây thiệt hại gián tiếp như bị mất thu nhập …
         
Nguyên đơn dân sự: Theo quy định của Điều 63 BLTTHS thì “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự chúng ta có thể dựa vào các đặc điểm như sau:
         
Bị hại bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp và có thể cả gián tiếp, còn nguyên đơn dân sự chỉ bị tội phạm gây thiệt hại gián tiếp. Mặc dù Điều 63 BLTTHS không quy định thiệt hại gián tiếp, nhưng điều này xuất phát từ quy định về bị hại tại Điều 62 BLTTHS.
         
Do bị thiệt hại gián tiếp, nên để được bồi thường thiệt hại, nguyên đơn phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây là quy định bắt buộc đối với nguyên đơn dân sự, tức là phải có đơn yêu cầu bằng văn bản hoặc thể hiện trong biên bản ghi lời khai thể hiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do các cơ quan hành tố tụng thu thập đưa vào hồ sơ vụ án. Như vậy, tham gia tố tụng là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự. Nếu không muốn thực hiện quyền tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ cần không làm đơn yêu cầu hoặc không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn nếu cơ quan tiến hành tố tụng muốn họ tham gia tố tụng nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án thì tiến hành triệu tập với tư cách là người làm chứng (nếu thỏa mãn các dấu hiệu của người làm chứng).
         
Nếu bị hại có các quyền, nghĩa vụ tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án cả về hình sự và dân sự; thì nguyên đơn dân sự chỉ có các quyền, nghĩa vụ tố tụng liên quan đến việc bồi thường mà họ yêu cầu. Do đó, để xác định tư cách tố tụng đúng, cần làm rõ trong vụ án cụ thể, các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp để từ đó thực hiện các thủ tục tiếp theo.
         
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Tại Điều 65 BLTTHS quy định “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Từ khái niệm này có thể thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức.
         
Theo nhận thức chung thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có các đặc điểm là họ không liên quan gì đến hành vi phạm tội được thực hiện; nhưng quyết định của Tòa án lại liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có chín quyền (từ điểm a đến điểm i, khoản 2 Điều 65 BLTTHS) và có ba nghĩa vụ (điểm a, b, c khoản 3 Điều 65 BLTTHS). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người không tham gia thực hiện tội phạm và Tòa án phải giải quyết quyền lợi, tài sản của họ vì liên quan đến vụ án hình sự. Những người người này thường là chủ sở hữu tài sản, nhưng tài sản đó lại có trong tay người phạm tội hoặc người đã được người phạm tội giao cho tài sản, mà tài sản đó là do phạm tội mà có…Ví dụ: A mượn xe máy của B đi chơi và bị ngã nên xe bị hư hỏng. Sau đó, A đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mang đi bán lấy tiền để sửa lại chiếc xe. Trong trường hợp này, việc Tòa án quyết định tịch thu hay không tịch thu chiếc xe này có liên quan trực tiếp đến lợi ích của B. Vì vậy, tại giai đoạn xét xử, Tòa án sẽ xác định B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Còn nếu quá trình điều tra có căn cứ xác định B hoàn toàn không liên quan đến hành vi phạm tội của A và Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe này cho B. Do B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên khi xét xử, Tòa án có thể triệu tập B đến phiên tòa với tư cách là người làm chứng. Việc không liên quan gì đến tội phạm là dấu hiệu phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với những người tham gia tố tụng khác.
         
Một ví dụ khác về những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người đã được người phạm tội bán lại tài sản do phạm tội mà có. Giai đoạn ban đầu, các cơ quan tiến hành tố tụng đều xác định người này tham gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì họ đang chiếm giữ tài sản là vật chứng của vụ án. Tuy nhiên, qua điều tra xác định người này hoàn toàn không biết đây là tài sản do phạm tội mà có và đã tự nguyện giao nộp lại tài sản để trả lại cho người bị hại. Đồng thời, người này có yêu cầu người phạm tội phải bồi thường lại số tiền đã bỏ ra để mua tài sản cùng một số thiệt hại khác. Do đó, tại giai đoạn truy tố và xét xử, tư cách tố tụng của người này sẽ không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà sẽ phải xác định người này với tư cách là nguyên đơn dân sự, đồng thời là người làm chứng trong vụ án mới đúng và đầy đủ.
         
Ngoài ra, chúng ta không nên nhầm lẫn giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án với những người có hành vi phạm tội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc vì có lý do nào đó mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự như trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự… Trên thực tế hiện nay, rất nhiều đơn vị, địa phương khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người tham gia thực hiện hành vi nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (chưa đủ tuổi, chưa có tiền sự ...) đều xác định họ trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS thì những người này có thể được Tòa án triệu tập với tư cách là người làm chứng.
         
Người làm chứng: Tại Điều 66 BLTTHS quy định Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Điều kiện cần và đủ của một người được xác định với tư cách tố tụng của người làm chứng đó là biết được tình tiết liên quan đến vụ án, tội phạm và được cơ quan có thẩm quyền triệu tập đến làm chứng. Từ khái niệm này cùng với những phân tích ở trên về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể thấy một người ở giai đoạn điều tra ban đầu được xác định có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nhưng có căn cứ xác định hành vi của người này chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tại giai đoạn truy tố và xét xử phải xác định tư cách tố tụng là người làm chứng.
         
Như vậy, để phân biệt và xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo các quy định của BLTTHS năm 2015 thì chúng ta cần căn cứ vào bản chất nội dung của từng vụ án và vai trò của người đó trong vụ án ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Tư cách tố tụng của một người trong một vụ án cụ thể có thể bị thay đổi ở từng giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố và xét xử) tùy vào mức độ liên quan của họ trong vụ án ở giai đoạn đó. Mặt khác, có nhiều trường hợp, một người trong một vụ án có thể tham gia cùng lúc với nhiều tư cách tố tụng khác nhau. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử một vụ án hình sự cụ thể, cần xác định đúng và đầy đủ tư cách tố tụng của một người nhất định trong vụ án đó mới đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách toàn diện và triệt để. Tránh trường hợp bị cấp trên hủy án, sửa án và bị đánh giá vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do lỗi xác định sai tư cách của những người tham gia tố tụng trong vụ án đó./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Xuân Kỳ

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây