Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai

https://vksnd.gialai.gov.vn


Kỹ năng kiểm sát, khó khăn, vướng mắc trong kiểm sát việc giải quyết nguồn tin tội phạm những vụ việc dễ gây nhầm lẫn

Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố đối với các vụ việc có dấu hiệu Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cho thấy việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gặp rất nhiều khó khăn do quy định của pháp luật về các các dấu hiệu tội phạm còn chưa cụ thể; nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng đôi lúc còn nhiều mâu thuẫn; người thực hiện loại tội phạm này thông thường có kiến thức nhất định nên có nhiều phương pháp, thủ đoạn che giấu hành vi phạm tội, đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích, làm rõ nội dung yêu cầu kiểm tra, xác minh của VKS đối với CQĐT trong việc giải quyết những vụ việc có nét tương đồng dễ gây ra nhầm lẫn giữa hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, từ đó tạo cơ sở cho việc định tội danh được chính xác.

Xác định những vấn đề cần yêu cầu kiểm tra, xác minh

Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên trên thực tế yêu cầu kiểm tra, xác minh với vụ việc có nét tương đồng dễ gây ra nhầm lẫn giữa hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì cần chú ý làm rõ một số nội dung sau:

– Làm rõ người phạm tội có chiếm đoạt tài sản hay không, thời điểm người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản:
Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi "chiếm đoạt tài sản". Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt rất phức tạp. Hiện nay có tình trạng vay, mượn trong nhân dân hoặc có những hợp đồng vay của ngân hàng với số tiền rất lớn lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, nhưng mỗi nơi xử lý một cách khác nhau. Có nơi coi đó chỉ là quan hệ dân sự hoặc quan hệ kinh tế, có nơi xử lý hình sự về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có nơi xử lý về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo tác giả, chiếm đoạt là biến của người khác thành của mình. Chỉ khi nào xác định có chiếm đoạt thì lúc đó mới là tội phạm.
Nếu đã xác định có chiếm đoạt tài sản thì việc cần làm rõ thời điểm người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản là khi nào?
Đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, sau khi có giao dịch hợp pháp của hai bên, người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản. Hay nói cách khác, sau khi có được tài sản, người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản.
Đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ý định chiếm đoạt tài sản có trước thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước việc giao tài sản.

– Làm rõ hành vi phạm tội:
Đối tượng phạm tội có được tài sản thông qua hình thức nào (vay, mượn, thuê tài sản của người khác, nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng hoặc lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động, bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản…) dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản hay không? Đối tượng phạm tội hiện có bỏ trốn hay không? Đã bị xử lý phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác hay không (nếu có hành vi chiếm đoạt tài sản thì đã được xóa án tích hay chưa); Đối tượng sử dụng tài sản bị chiếm đoạt vào mục đích gì? Đối tượng có đủ điều kiện, khả năng trả lại tài sản hay không? Tài sản bị chiếm đoạt có là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại hoặc gia đình họ hay không?...

– Làm rõ việc sử dụng thủ đoạn gian dối, thời điểm sử dụng thủ đoạn gian dối
Đối tượng sử dụng những thủ đoạn gian dối gì (nói dối bị mất, bị đánh tráo hoặc rút bớt tài sản…) thời điểm đối tượng sử dụng thủ đoạn gian dối là khi nào? Vì trên thực tế thủ đoạn gian dối trong tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ có xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản.
Ví dụ: M là bạn của H, ngày 15/3/2017 M hỏi mượn chiếc xe mô tô của H để đi lại và hẹn 5 ngày sau sẽ trả, H đồng ý và giao xe cho M. Sau khi nhận được xe, M đã sử dụng xe để tham gia đánh bạc và bị thua, do không có tiền trả nợ nên M đã mang xe của H đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu xài, sau đó không có khả năng chuộc xe về trả cho H, sau 02 tuần M nói với H là xe bị mất trộm. Như vậy hành vi lừa dối của M có sau hành vi M nhận tài sản từ H, mục đích nói dối của M là nhằm che dấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình (do M đã mang xe đi cầm cố và không có khả năng chuộc xe về trả cho H).

Thực tế đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đối tượng thường dùng thủ đoạn đưa ra thông tin không đúng sự thật với nhiều cách thức khác nhau làm người này tin tưởng là thật và giao tài sản, việc giao tài sản cho người có thủ đoạn gian dối hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của người bị lừa dối. Hành vi dùng thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng có trước hoặc đi liền với hành vi nhận tài sản từ người khác và được coi là điều kiện để thực hiện việc chiếm đoạt. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp của việc chuyển dịch tài sản từ người quản lý sang người phạm tội.
Ví dụ: A nói với B là do mẹ bị bệnh nặng và vay B số tiền 10 triệu đồng để đưa mẹ đi cấp cứu, do B tin tưởng nên cho A vay số tiền trên. Sau khi nhận được tiền A đã sử dụng số tiền đó để đánh bạc và bị thua, không có khả năng trả nợ cho B. Qua vụ án trên ta có thể thấy rằng A có hành vi lừa dối B làm cho B tin tưởng, sau đó B mới giao tài sản cho A. Như vậy, hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trước hành vi giao nhận tài sản giữa chủ tài sản và người phạm tội. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra.

– Làm rõ thời điểm hoàn thành tội phạm
Hai tội danh này khác nhau ở thời điểm có ý thức chiếm đoạt tài sản, người phạm tội lừa đảo có ý thức chiếm đoạt ngay từ ban đầu và để đạt được mục đích chiếm đoạt đó, họ thực hiện các hành vi gian dối để nhận được tài sản rồi chiếm đoạt. Vì vậy, ngay sau khi họ nhận được tài sản cũng là thời điểm họ chiếm đoạt tài sản, là thời điểm tội phạm hoàn thành. Còn tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có hành vi chiếm đoạt sau khi họ đã có tài sản của chủ tài sản trong tay một cách ngay tình. Sau đó, nếu họ có các hành vi như dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn… để không trả lại tài sản thì mới cấu thành tội phạm này. Do đó, thời điểm hoàn thành của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thời điểm người phạm tội vi phạm những cam kết đã thỏa thuận, cố tình không trả, chiếm đoạt tài sản của người khác.
Việc làm rõ các dấu hiệu “bỏ trốn" quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015 hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn nhưng theo quan điểm tác giả không nhất thiết phải là trốn khỏi địa phương, cũng không cần CQĐT phải truy nã, mà chỉ trốn tránh chủ nợ như: bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ biết... miễn sao tránh mặt được chủ nợ.

– Làm rõ trị giá tài sản bị chiếm đoạt
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản từ 4.000.000 trở lên đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định ở BLHS thì mới phạm tội. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do tính nguy hiểm cao hơn nên trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp theo quy định thì phạm tội. Vì vậy trong yêu cầu kiểm tra, xác minh thường phải yêu cầu giám định giá trị tài sản bị chiếm đoạt; trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký trong các hợp đồng, giấy biên nhận vay mượn tiền…

- Làm rõ về người phạm tội: Làm rõ căn cước, lai lịch, tiền án, tiền sự, đặc điểm nhận dạng của từng đối tượng, xác định năng lực trách nhiệm hình sự của những người phạm tội; lỗi của người phạm tội, thái độ trước, trong và sau khi phạm tội cũng như hành vi cố ý gian dối để lấy lòng tin nhằm chiếm đoạt tài sản; động cơ, mục đích phạm tội, xác định nơi cất giấu tài sản người phạm tội chiếm đoạt được, công cụ, phương tiện phạm tội và những tài sản thuộc sở hữu của người phạm tội phục vụ việc kê biên, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt. Trong vụ án có đồng phạm phải làm rõ vị trí, vai trò của từng đối tượng.

- Làm rõ về người bị hại: Yêu cầu CQĐT thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ những nội dung sau về người bị hại: Quan hệ với người phạm tội như thế nào? Những hiểu biết của họ về người phạm tội và hành vi phạm tội? Nguyên nhân, mục đích, lý do giao tài sản cho người phạm tội? Đã giao cho người phạm tội những tài sản gì? Số lượng, đặc điểm, giá trị của những tài sản đó? Những yêu cầu, đề xuất, kiến nghị của người bị hại? Trên thực tế, có những vụ án, hành vi phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật khác của người bị hại trong vụ án như cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm…là điều kiện để người phạm tội thực hiện được tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà họ quản lý;…
Sau khi đã xác định nội dung những vấn đề cần yêu cầu kiểm tra, xác minh, KSV xây dựng dự thảo yêu cầu kiểm tra, xác minh và nên chủ động trao đổi với ĐTV về các nội dung yêu cầu của mình để thống nhất trong việc thu thập, đánh giá các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án. KSV phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi, trao đổi với ĐTV trong suốt quá trình điều tra để thực hiện các nội dung yêu cầu điều tra và kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và đảm bảo tính khả thi.

Một số vấn đề cần lưu ý khi đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh

- Điều 175 BLHS năm 2015 còn quy định: “Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có diều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả". Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Nếu các khoản vay, mượn trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mà sau 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mới hết hạn, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, thì vẫn là quan hệ dân sự.
 
- Trong một vụ việc có rất nhiều vấn đề cần phải thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh; tuy nhiên cũng cần thấy rằng, có những vấn đề nếu Kiểm sát viên không yêu cầu kiểm tra, xác minh thì theo thông thường Điều tra viên vẫn tiến hành điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ, đối với những vấn đề này không cần thiết phải liệt kê ra hết để yêu cầu kiểm tra, xác minh. Để yêu cầu thực sự mang lại hiệu quả; KSV trước hết cần tập trung yêu cầu làm rõ những vấn đề cơ bản, quan trọng và mấu chốt nhất của vụ án, đó là những vấn đề này nếu không yêu cầu kiểm tra, xác minh thì có thể sẽ không được kiểm tra xác minh hoặc việc kiểm tra xác minh sẽ sơ sài, không đầy đủ, không khách quan, phiến diện. Đồng thời, căn cứ vào tiến độ kiểm tra xác minh, KSV tiếp tục thực hiện quyền yêu cầu của mình khi cần thiết.

- Một vấn đề nữa cũng cần chú ý là, đối với loại tội phạm có nét tương đồng dễ gây ra nhầm lẫn giữa hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có những dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm khó chứng minh, khó thu thập chứng cứ, thì Kiểm sát viên cần quan tâm nghiên cứu về những biện pháp yêu cầu, kiểm tra thu thập chứng cứ để yêu cầu Điều tra viên thực hiện. Ví dụ: Để làm rõ hành vi lừa dối xảy ra trước hành vi chiếm đoạt. Trong trường hợp này cần yêu cầu kiểm tra xác minh chi tiết hóa lời khai của đối tượng và thu thập chứng cứ khác phù hợp với lời khai của đối tượng. Ngoài ra, cần chú ý trong yêu cầu kiểm tra, xác minh phải thu thập tài liệu, chứng cứ để có đủ căn cứ phân biệt với các tội phạm khác.

- Một vấn đề nữa cũng cần chú ý là, cách thức viết yêu cầu kiểm tra xác minh nên theo hướng mở, đặt vấn đề để yêu cầu giải quyết.

Một số khó khăn, vướng mắc:

- Trong tiến hành hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS quy định về các hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
b) Khám nghiệm hiện trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.
Theo quy định trên, thì ngoài các hoạt động nêu trên, Cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố có được thực hiện các hoạt động: nhận dạng, đối chất hay không? Tại thông tư liên tịch 01/2017 đã có hiệu lực từ ngày 01/3/2018 thay thế Thông tư liên tịch 01/2013, cũng không có hướng dẫn cụ thể về nội dung này. Vì qua tham khảo tác giả nhận thấy quá trình giải quyết một số tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cần thiết phải tiến hành hoạt động nhận dạng người (qua ảnh), đối chất.... để xác định người bị tố giác, người liên quan có đúng là người đã thực hiện hành vi vi phạm hay không để có căn cứ xem xét xử lý.

- Về tạm đình chỉ         
Qua tham khảo một số đơn vị tác giả nhận thấy không phải vụ việc nào khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết đối với tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố đối với các vụ việc có dấu hiệu Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều có thể ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Có những vụ việc trong quá trình điều tra, CQĐT đã áp dụng toàn bộ các biện pháp nghiệp vụ để làm rõ những yêu cầu của Viện kiểm sát nhưng khi hết thời hạn kiểm tra xác minh không thể chứng minh được có hành vi chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: A tố cáo B Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (không có người làm chứng). Sau khi thụ lý, Cơ quan điều tra đã triệu tập và xác minh nhiều lần với gia đình và chính quyền địa phương nhưng không xác định được B đang ở đâu, chưa lấy lời khai của B. Do vậy, không đủ căn cứ để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án.

Theo quy định Khoản 1 Điều 148 BLTTHS:
“Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;
b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả”.
Như vậy trong trường hợp trên có thể xem nội dung “Cơ quan điều tra đã triệu tập và xác minh nhiều lần với gia đình và chính quyền địa phương nhưng không xác định được B đang ở đâu” được coi là “đã yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định…” để tạm đình chỉ việc kiểm tra, xác minh không. Vì hiện tại chưa có một văn bản nào hướng dẫn về các tình tiết trên./.

Tác giả bài viết: Lê Xuân Quang

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây