Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai

https://vksnd.gialai.gov.vn


Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong bộ luật tố tụng hình sự 2015

Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, đã có những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện vẫn chưa có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Đây là vấn đề không chỉ Đảng, chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp quan tâm mà các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm đối với người chưa thành niên là: "Vấn đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra", quán triệt tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã dành nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, thì thấy rằng, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn phải có kiến thức hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để đề ra đường lối giải quyết vụ án vừa thấu tình đạt lý, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương; song quan trọng hơn giúp các em hiểu rõ các quy định của pháp luật tránh được các vi phạm đáng tiếc xảy ra, giúp các em sửa chữa lỗi lầm trở thành các công dân có ích cho gia đình và xã hội.
 
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi theo hướng nhân đạo, thân thiện, tôn trọng và bảo vệ đầy đủ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nổi bật là việc cơ quan lập pháp đã mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục đặc biệt này cho cả người bị hại và người làm chứng dưới 18 tuổi; ghi nhận những nguyên tắc tiến hành tố tụng đặc thù; biện pháp giám sát, giáo dục thay thế cho hình phạt và biện pháp tư pháp nhằm sớm đưa các em ra khỏi quá trình tố tụng truyền thống khi có điều kiện để hạn chế tác động tiêu cực. Bên cạnh ưu điểm, những sửa đổi, bổ sung trên đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Trong bài viết này, cá nhân người nghiên cứu nội dung trên ở khía cạnh: Đối chiếu những qui định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên ở Bộ luật tố tụng hiện hành và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trên cở sở đó, phân tích những ưu, nhược điểm và kiến nghị khắc phục, cụ thể như sau:

1. Những điểm mới và tiến bộ về người chưa thành niên được qui định trong BLTTHS 2015.

1.1. Tên gọi
Thuật ngữ “người chưa thành niên” đã được thay đổi thành “người dưới 18 tuổi” trong các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015. Việc thay đổi này có thể nhằm mục đích tránh sự mâu thuẫn giữa hai bộ luật trên với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) nhiều khả năng sẽ được thông qua trong thời gian tới. Theo đó, trẻ em là người dưới 18 tuổi chứ không phải dưới 16 tuổi.Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau về đề xuất nâng độ tuổi của trẻ em. Những người không ủng hộ cho rằng việc nâng độ tuổi trẻ em sẽ dẫn đến sự xung đột với nhiều văn bản khác như Bộ luật lao động, BLHS, Bộ luật dân sự, Luật Thanh niên… Công ước Liên Hiệp Quốc (LHQ) về quyền trẻ em cũng không bắt buộc các quốc gia thành viên phải quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Quan trọng hơn, thực tế cho thấy tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Việc nâng độ tuổi của trẻ em đồng nghĩa với việc phải có chính sách hình sự khoan hồng hơn nữa cho người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Điều này làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, gây ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự xã hội, đặc biệt đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ngược lại, khi nâng độ tuổi của trẻ em sẽ giúp cho những người thuộc nhóm tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 nhận được chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục về đạo đức, nhân cách, tâm lý và kỹ năng sống; qua đó có thể góp phần phòng ngừa và giảm số lượng tội phạm chưa thành niên. Việc BLTTHS sử dụng tên gọi “người dưới 18 tuổi” để chỉ người chưa thành niên trước đây mang tính “an toàn” tạm thời và cần thiết.

1.2. Phạm vi áp dụng và nguyên tắc tiến hành tố tụng
Theo quy định của BLTTHS 2015 (Điều 413), thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi không chỉ áp dụng cho người bị buộc tội mà còn cho cả người bị hại và người làm chứng. Việc bổ sung này góp phần bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người trực tiếp gánh chịu những thiệt hại tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra và người biết được những tình tiết liên quan đến tội phạm, góp phần xác định sự thật vụ án; tạo sự công bằng về các bảo đảm tố tụng giữa người bị buộc tội và người bị hại là người dưới 18 tuổi. Đây là một điểm tiến bộ rõ rệt của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam.

1.3. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Biện pháp ngăn chặn (BPNC), biện pháp cưỡng chế trong TTHS hạn chế một số quyền con người, quyền công dân của người bị áp dụng. Đối với người dưới 18 tuổi, do sự phát triển chưa toàn diện về thể chất, tâm lý, khả năng nhận thức và đặc điểm dễ bị tổn thương, nên việc áp dụng những BPNC, nhất là những biện pháp mang tính nghiêm khắc cao như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam phải hết sức thận trọng. Nhận thức được điều này, BLTTHS 2015 bổ sung quy định chỉ áp dụng BPNC, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết; tạm giữ, tạm giam chỉ được sử dụng khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các BPNC khác không hiệu quả; thời hạn tạm giam bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên Những quy định khác về giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội thuộc 02 nhóm tuổi: từ đủ 14 đến dưới 16, từ đủ 16 đến dưới 18 được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định khác của BLTTHS 2015 (Chương VII) và BLHS 2015 (khoản 2 Điều 12). Những thay đổi trên của BLTTHS 2015 là hợp lý, khá tương đồng với quy định của Công ước về quyền trẻ em.

1.4. Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS
Theo quy định của BLHS 2015 và BLTTHS 2015, có ba biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trong trường hợp được miễn TNHS bao gồm: khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Nếu như khiển trách và hòa giải tại cộng đồng là hai biện pháp lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước ta thì giáo dục tại xã, phường thị trấn trước đây là một trong hai biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Ba biện pháp trên và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải được Tòa án ưu tiên lựa chọn khi quyết định hình thức chế tài đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.Hình phạt chỉ được sử dụng khi xét thấy việc áp dụng những biện pháp vừa nêu không bảo đảm hiệu quả giáo dục và phòng ngừa. Biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi có thể được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử khi người này được miễn TNHS và họ hoặc người đại diện đồng ý. 
Quy định của BLHS 2015 và BLTTHS 2015 về biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS là sự tiếp thu có chọn lọc các hình thức xử lý chuyển hướng  trong tư pháp phục hồi  mà LHQ luôn khuyến khích các quốc gia thành viên của Công ước về quyền trẻ em nên nghiên cứu áp dụng. Những biện pháp này là một phần không thể thiếu trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên của mỗi quốc gia,  mang lại những kết quả tốt cho người dưới 18 tuổi, vì những lợi ích của an toàn công cộng và đã được chứng minh là rất có hiệu quả trong mối tương quan với chi phí bỏ ra.

2. Một số hạn chế và kiến nghị khắc phục:  

2.1. Bào chữa, điều tra, xét xử
Những vấn đề liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong BLTTHS 2015 không có nhiều thay đổi so với trước đây. Bộ luật quy định những người này có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.Việc sử dụng từ “hoặc” là không chính xác vì có thể dẫn đến sự hiểu nhầm là người bị buộc tội khi tự mình bào chữa thì sẽ không được nhờ người khác bào chữa hoặc ngược lại. Vì vậy nên quy định: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa”. Tương tự, người đại diện có quyền lựa chọn người bào chữa, tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội.
Quy định về việc từ chối người bào chữa chỉ định của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có điểm hạn chế. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), khi có sự mâu thuẫn giữa bị cáo là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ trong việc từ chối người bào chữa chỉ định thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung, có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Điều này có nghĩa khi và chỉ khi cả bị cáo và người đại diện hợp pháp thống nhất ý kiến từ chối người bào chữa chỉ định thì người này mới không tham gia phiên tòa. Cách hướng dẫn trên của Hội đồng thẩm phán TANDTC là hợp lý, đảm bảo việc hỗ trợ pháp lý của người bào chữa chỉ định được thực hiện trong nhiều vụ án; qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 không những không pháp điển hóa hướng dẫn này mà còn quy định ngược lại là chỉ cần người dưới 18 tuổi bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của họ từ chối người bào chữa chỉ định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa. Bộ luật cũng thể hiện một sự thiếu sót khi tại điểm b khoản 5 Điều 78 sau đó quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa khi người bị buộc tội thuộc trường hợp được bào chữa chỉ định từ chối người bào chữa mà không đề cập đến trường hợp người đại diện hoặc người thân thích từ chối. Những quy định này tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án vì không phải tìm người bào chữa chỉ định, nhưng ngược lại không bảo vệ, giúp đỡ được người dưới 18 tuổi bị buộc tội. Như đã phân tích, hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP về vấn đề này là hợp lý nên được tiếp tục kế thừa và ghi nhận trực tiếp trong BLTTHS.
Bên cạnh những tiến bộ đã trình bày ở phần trên, quy định về lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi trong BLTTHS 2015 vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng, chưa đầy đủ. Khoản 2 Điều 421 quy định khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ; khi lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự. Thực tiễn giải quyết vụ án không tránh khỏi trường hợp Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên phải lấy lời khai, hỏi cung nhiều lần. Như vậy pháp luật có đòi hỏi sự tham gia của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong tất cả các lần lấy lời khai, hỏi cung hay không? Vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng hơn để tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Điều tra vụ án hình sự (VAHS) không chỉ bao gồm hoạt động lấy lời khai, hỏi cung mà còn có những hoạt động khác được tiến hành với sự tham gia của bị can, người bị hại như: nhận dạng, khám xét, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định đòi hỏi BLTTHS phải có những quy định riêng phù hợp với đặc điểm về thể chất, tâm lý, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi. Quan trọng hơn, các cơ quan quản lý như Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, TANDTC nên nghiên cứu xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục điều tra thân thiện đối với người dưới 18 tuổi.

2.2. Thời hạn giải quyết vụ án hình sự
Như đã trình bày, BLTTHS 2015 quy định thời hạn tạm giam người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, thời hạn tiến hành các giai đoạn tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thì không có sự khác biệt. Theo Ủy ban quyền trẻ em, có một sự đồng thuận mang tính quốc tế rằng đối với trẻ em vi phạm pháp luật hình sự thì thời hạn giải quyết VAHS tính từ khi thực hiện tội phạm cho đến khi có quyết định xử lý cuối cùng càng ngắn càng tốt bởi vì thời hạn này càng kéo dài thì có thể việc xử lý sẽ mất đi những tác động tích cực như mong muốn. Do đó BLTTHS 2015 nên bổ sung quy định về thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi ngắn hơn thời hạn tương ứng áp dụng với VAHS của người đủ 18 tuổi trở lên. Điều này góp phần cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi (khoản 7 Điều 414).

2.3. Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS
Việc quy định những biện pháp này là một điểm tiến bộ trong quá trình cải cách hệ thống tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thế giới. Tuy nhiên do đây là lần đầu tiên ghi nhận nên không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Căn cứ vào Những nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các chương trình tư pháp phục hồi trong VAHS  và hướng dẫn, giải thích của Ủy ban quyền trẻ em có thể nhận thấy quy định của BLHS 2015 và BLTTHS 2015 về những biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi có một số điểm hạn chế sau cần khắc phục:
Thứ nhất, bản chất của các biện pháp này chưa được xác định rõ ràng. Đây có phải thực chất là những hình thức xử lý chuyển hướng; là biện pháp tư pháp hình sự; hay là chế định miễn TNHS được phát triển đầy đủ hơn?Tại sao phải quyết định miễn TNHS thì sau đó mới có thể áp dụng những biện pháp giám sát, giáo dục với người dưới 18 tuổi phạm tội?Theo Ủy ban thường vụ quốc hội đây là biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp. Ngược lại, Bộ Tư pháp cho rằng đây cơ bản vẫn là chế định miễn TNHS theo quy định hiện hành, tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người chưa thành niên, bảo đảm phòng ngừa tái phạm thì cùng với việc miễn TNHS cần áp dụng biện pháp xử lý mang tính giáo dục, phòng ngừa thay vì trả tự do vô điều kiện cho họ. Nếu cho rằng đây là những biện pháp thay thế cho hình phạt và biện pháp tư pháp thì không cần phải đặt ra điều kiện người dưới 18 tuổi phải được miễn TNHS mà có thể áp dụng độc lập. Trong Những nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các chương trình tư pháp phục hồi trong VAHS cũng không đề cập đến điều kiện này, thay vào đó là khuyến nghị các chương trình tư pháp phục hồi chỉ nên được sử dụng khi có đủ chứng cứ để buộc tội và có sự tự nguyện chấp thuận của nạn nhân và người phạm tội.
Thứ hai, BLHS đã “bỏ quên” ý chí của người bị hại (bao gồm người dưới 18 tuổi) và người đại diện của họ trong việc quyết định áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều 92 BLHS 2015 quy định các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định miễn TNHS và áp dụng các biện pháp này nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý mà không quan tâm đến ý kiến của người bị hại.
Thứ ba, quy định của BLTTHS 2015 về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp này chưa thống nhất và còn nhiều thiếu sót. Theo quy định tại Điều 426 thì có thể hiểu sau khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi phạm tội, dựa trên những điều kiện quy định tại BLHS 2015, các cơ quan này quyết định áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục. Đối với biện pháp khiển trách và biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, BLTTHS quy định rõ là khi miễn TNHS những người có thẩm quyền quyết định áp dụng. Riêng đối với biện pháp hòa giải tại cộng đồng thì không có quy định tương tự. Ngoài ra, theo điểm g khoản 5 Điều 428 khi kết thúc hòa giải người bị hại, người đại diện của họ có thể đề nghị miễn TNHS cho người phạm tội. Điều này gián tiếp cho thấy biện pháp hòa giải tại cộng đồng được áp dụng trước khi người phạm tội được miễn TNHS. Trong khi đó khoản 2 Điều 94 BLHS 2015 lại quy định việc hòa giải tại cộng đồng chỉ được tổ chức thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. BLTTHS 2015 cũng chưa quy định cách thức xử lý tiếp theo trong trường hợp hòa giải không thành hoặc các bên không thực hiện, thực hiện không đúng những thỏa thuận đạt được khi kết thúc hòa giải. Trong thời gian tới, nhất là khi BLTTHS 2015 chính thức có hiệu lực, các cơ quan có thẩm quyền phải phối hợp ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng.

Tư pháp đối với người chưa thành niên là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống tư pháp hình sự nói chung của mỗi quốc gia, điều này đòi hỏi phải được xây dựng một cách khéo léo để vừa đảm bảo hiệu quả của hoạt động đấu tranh, phòng ngừa, xử lý tội phạm vừa bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, giúp họ vượt qua mặc cảm, khó khăn để tái hòa nhập cộng đồng. 

Tác giả bài viết: Lê Thị Kim Dung

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây