M
ột trong nh
ững nguyên t
ắc quan tr
ọng nh
ất trong pháp lu
ật Hình s
ự nư
ớc ta đó là m
ọi công dân đ
ều bình đ
ẳng trư
ớc pháp lu
ật, và trong đó ngư
ời có l
ỗi m
ới có th
ể ph
ải ch
ịu trách nhi
ệm hình s
ự. Ngư
ời ph
ạm t
ội b
ị coi là có l
ỗi khi “
nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội”
[1].
Như v
ậy, ở đây th
ấy r
ằng khi th
ực hi
ện hành vi ph
ạm t
ội thì ngư
ời ph
ạm t
ội có thể l
ựa ch
ọn và th
ực hi
ện nhi
ều hành vi x
ử s
ự khác nhau nhưng ngư
ời ph
ạm t
ội l
ại l
ựa ch
ọn và th
ực hi
ện hành vi nguy hi
ểm và gây thi
ệt h
ại cho xã h
ội. Vi
ệc l
ựa ch
ọn này th
ể hi
ện qua ý th
ức, ý chí c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội, và đây chính là ch
ất li
ệu t
ạo nên l
ỗi, l
ỗi
ở đây có th
ể hi
ểu là “
thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”
[2].
Và khi đ
ịnh t
ội danh thì vi
ệc xác đ
ịnh l
ỗi là h
ết s
ức quan tr
ọng, b
ởi nó th
ể hi
ện rõ ràng nh
ất m
ối liên h
ệ gi
ữa ý th
ức, ý chí c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội v
ới hành vi nguy hi
ểm mà ngư
ời ph
ạm t
ội đã th
ực hi
ện hay có th
ể hi
ểu ý chí c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội đi
ều khi
ển vi
ệc th
ực hi
ện hành vi ph
ạm t
ội. Đ
ồng th
ời, nó còn giúp chúng ta phân bi
ệt gi
ữa c
ấu thành t
ội ph
ạm này v
ới c
ấu thành t
ội ph
ạm khác như C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời v
ới Gi
ết ngư
ời, v
ới Vô ý làm ch
ết ngư
ời… B
ởi gi
ữa các hành vi này đ
ều có nh
ững dấu hiệu tương đ
ối gi
ống nhau như: v
ề ch
ủ th
ể c
ủa t
ội ph
ạm đ
ều là ngư
ời t
ừ đủ 14 tu
ổi tr
ở lên, có năng l
ực trách nhi
ệm hình sự, đều có hành vi dùng vũ lực xâm hại đến nạn nhân như dùng hung khí nguy hiểm là dao, gậy, đá… để đâm, chém, đánh, ném vào nạn nhân hoặc dùng sức mạnh của cơ thể và tấn công vào vùng trọng yếu như dùng tay, chân đấm đá mạnh vào huyệt thái dương, vào vùng ngực… và đều có mối quan hệ đó là dùng vũ lực tác động đến nạn nhân dẫn đến nạn nhân chết, hay nói cách khác h
ậu qu
ả c
ủa các lo
ại t
ội ph
ạm này đ
ều d
ẫn đ
ến h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời.
Ngoài những đặc điểm giống nhau trên thì giữa hành vi Giết người và Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người như đã nêu trên thì vẫn có một số dấu hiệu để có thể phân biệt sự khác nhau giữa hai hành vi này, điều khác nhau cơ b
ản giữa hai hành vi này đó là: đối với hành vi gi
ết ngư
ời thì khách th
ể xâm ph
ạm
ở đây không còn là s
ức kh
ỏe n
ữa mà là sinh m
ạng c
ủa ngư
ời khác, và hành vi này là hành vi c
ố ý tư
ớc đo
ạt sinh m
ạng ngư
ời khác, còn đối với hành vi Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người thì chỉ dừng lại ở việc xâm phạm sức khỏe, và việc hậu quả chết người không phải là mục đích hướng tới của người phạm tội. Tức về m
ặt ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội ý th
ức, ý chí c
ủa họ là ch
ỉ mu
ốn gây ra thương tích cho b
ị h
ại, ngư
ời ph
ạm t
ội không thể hiện mong mu
ốn nào cho h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời x
ảy ra, h
ậu quả ch
ết ngư
ời là ngoài ý mu
ốn c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội. Như vậy, đối với trường hợp Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, m
ặc dù ngư
ời ph
ạm t
ội có th
ể th
ấy trư
ớc h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời có thể x
ảy ra nhưng họ tin r
ằng hậu quả đó s
ẽ không x
ảy ra ho
ặc có th
ể ngăn ch
ặn đư
ợc, dù thực tế là h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời v
ẫn x
ảy ra.
Trong th
ực t
ế đi
ều tra, truy t
ố, xét x
ử thì cũng cho th
ấy r
ằng vi
ệc đ
ịnh t
ội danh đ
ối v
ới hành vi Cố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời khá là d
ễ nh
ầm l
ẫn v
ới các t
ội phạm khác, đ
ặc bi
ệt là t
ội Gi
ết ngư
ời, nhất là giết người với lỗi cố ý gián tiếp. B
ởi đ
ể phân bi
ệt gi
ữa hai hành vi này thì vi
ệc xác đ
ịnh đối với gây thương tích và đối đối với h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời là l
ỗi c
ố ý tr
ực ti
ếp hay c
ố ý gián ti
ếp là vô cùng quan. Đ
ể làm đư
ợc đi
ều đó, việc xác định các dấu hiệu chủ quan luôn luôn phải bám sát vào các d
ấu hi
ệu c
ủa m
ặt khách quan, t
ức c
ần căn c
ứ, đánh giá toàn di
ện trên các m
ặt như tính chất nguy hi
ểm c
ủa công c
ụ, phương ti
ện đư
ợc người phạm tội s
ử d
ụng, v
ị trí người phạm tội đã t
ấn công trên cơ th
ể n
ạn nhân, th
ời gian, không gian th
ực hi
ện hành vi t
ội ph
ạm, thái đ
ộ ngư
ời ph
ạm t
ội th
ực hi
ện t
ội ph
ạm có quy
ết li
ệt, đến cùng hay không, mâu thu
ẫn do b
ộc phát t
ức th
ời hay có t
ừ trư
ớc… Đ
ặc bi
ệt là ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội đ
ối v
ới nh
ững y
ếu t
ố t
ạo nên kh
ả năng gây ra h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời và thái đ
ộ c
ủa h
ọ đ
ối v
ới h
ậu qu
ả đó. Tuy nhiên trên th
ực t
ế vi
ệc ch
ứng minh các n
ội dung trên là vô cùng khó khăn, b
ởi t
ừ hành vi khách quan mà đ
ể bu
ộc đư
ợc ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội thì không có m
ột lý lu
ận nào c
ụ th
ể hư
ớng d
ẫn mà ch
ủ y
ếu d
ựa vào quan đi
ểm đánh giá cũng như kinh nghiệm c
ủa ngư
ời ti
ến hành t
ố t
ụng.
Ví d
ụ như v
ụ án Nguy
ễn H
ồng Phát cùng đ
ồng ph
ạm bị Tòa án nhân dân huy
ện Đăk Đoa, t
ỉnh Gia Lai xét x
ử v
ề t
ội Cố ý gây thương tích theo kho
ản 3 Đi
ều 104 Bộ luật Hình sự. Theo hồ sơ vụ án thể hi
ện: Kho
ảng 23 gi
ờ ngày 13/10/2014 Nguy
ễn H
ồng Phát cùng Nguy
ễn Minh Tú, Trương Nh
ật Hư
ớng, Nguy
ễn Long Ph
ụng và Đ
ặng Tây Nguyên đi chơi về đ
ến xã K’Dang thì b
ị Ph
ạm H
ồng H
ải ch
ặn l
ại h
ỏi t
ại sao nhóm c
ủa Phát l
ại ch
ửi H
ải trên facebook thì Tú tr
ả l
ời không có. Sau đó H
ải g
ọi đi
ện tho
ại cho Nguy
ễn H
ồng Phúc, Tăng Văn Hi
ếu và Tr
ần Văn Thành đ
ến đ
ể đánh nhóm c
ủa Phát. Khi đ
ến nơi thì H
ải cùng Hi
ếu, Phúc và Thành đánh nhóm c
ủa Tú nhưng không đ
ể l
ại thương tích gì, sau đó t
ất c
ả ra v
ề. Khi v
ề đ
ến ngã tư xã Hà Lòng thì do b
ực t
ức b
ị nhóm H
ải đánh nên Phát đã r
ủ Tú, Ph
ụng và Hư
ớng tìm H
ải đ
ể đánh, c
ả b
ọn đ
ồng ý. C
ả nhóm đ
ến đ
ứng cách nhà H
ải kho
ảng 500m, bên qu
ốc l
ộ 19 hư
ớng Pleiku đi Mang Yang đ
ứng ch
ờ H
ải v
ề. Trong lúc đ
ứng ch
ờ thì Kính nh
ặt 01 viên g
ạch, Tú nh
ặt 01 viên g
ạch (lo
ại 06 l
ỗ), Phát nh
ặt 03 đo
ạn cây dài kho
ảng t
ừ 0,8m đ
ến 01m. Đ
ến kho
ảng 1 gi
ờ 30 ngày 14/10/2014 thì c
ả nhóm th
ấy Hoàng Văn Phúc đi
ều khi
ển xe mô tô ch
ở theo sau là Ph
ạm H
ồng H
ải thì t
ất c
ả xông ra. Th
ấy v
ậy Phúc đã đi
ều khi
ển xe ch
ạy qua nhóm c
ủa Kính, khi ch
ạy đư
ợc kho
ảng 03m thì b
ị Tú ném 01 viên g
ạch vào đuôi xe Phúc, và Kính ném 01 viên g
ạch vào phía sau đ
ầu c
ủa H
ải. Sau khi H
ải b
ị ném trúng đ
ầu thì Phúc v
ẫn đi
ều khi
ển xe ch
ạy đư
ợc thêm 30m thì H
ải ngã kh
ỏi xe mô tô rơi xu
ống đư
ờng. Sau khi th
ấy H
ải ngã thì t
ất c
ả b
ỏ ch
ạy, Phúc vào nhà dân nh
ờ m
ọi ngư
ời đưa H
ải đi c
ấp c
ứu t
ại b
ệnh vi
ện Hoàng Anh Gia Lai, đ
ến ngày 02/11/2014 thì H
ải ch
ết.
T
ại b
ản K
ết lu
ận giám đ
ịnh pháp y s
ố 126/TTPY ngày 10/11/2014 c
ủa Trung tâm giám đ
ịnh pháp y t
ỉnh Gia Lai k
ết lu
ận nguyên nhân ch
ết c
ủa Ph
ạm H
ồng H
ải là ch
ấn thương s
ọ não n
ặng do vật cứng tác động.
Ngày 04/6/2015 Tòa án nhân dân huy
ện Đăk Đoa đã đưa v
ụ án ra xét x
ử Ph
ạm Ng
ọc Kính cùng đ
ồng ph
ạm ph
ạm t
ội C
ố ý gây thương tích theo kho
ản 3 đi
ều 104 BLHS.
[3] Như v
ậy, t
ừ v
ụ án trên th
ấy r
ằng, xét v
ề m
ối quan hệ nhân qu
ả thì hành vi ném g
ạch vào đ
ầu Ph
ạm H
ồng H
ải c
ủa Ph
ạm Ng
ọc Kính đã d
ẫn đ
ến h
ậu qu
ả là H
ải ch
ết.
Xét v
ề m
ặt khách quan thì hung khí ở đây mà Kính s
ử d
ụng là g
ạch, là hung khí nguy hi
ểm mang tính sát thương cao, khi t
ấn công vào n
ạn nhân có th
ể gây thương tích ho
ặc ch
ết ngư
ời, mà Kính l
ại sử dụng hung khí này ném g
ạch vào đ
ầu là nơi tr
ọng y
ếu d
ễ d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời nh
ất. Đ
ồng th
ời hành vi c
ủa Kính và đồng phạm l
ại li
ều lĩnh, côn đ
ồ ch
ỉ vì mâu thu
ẩn nh
ỏ mà ph
ục kích gi
ữa đêm khuya sau đó gây thương tích cho n
ạn nhân, r
ồi b
ỏ m
ặc n
ạn nhân. Nên hành vi trên c
ủa các đ
ối tư
ợng là có d
ấu hi
ệu c
ủa t
ội gi
ết ngư
ời.
Nhưng bàn v
ề l
ỗi, có hai d
ạng thông thư
ờng đó là l
ỗi c
ố ý tr
ực ti
ếp, t
ức ngư
ời ph
ạm t
ội khi th
ực hi
ện hành vi đã nh
ận th
ức rõ hành vi đó và mong mu
ốn cho h
ậu qu
ả x
ảy ra, còn l
ỗi c
ố ý gián ti
ếp, t
ức
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra[4]. Trong trư
ờng h
ợp này là thu
ộc l
ỗi c
ố ý gián ti
ếp, ý th
ức ban đ
ầu c
ủa các đ
ối tư
ợng là ch
ỉ gây thương tích cho nạn nhân, không có ý đ
ịnh tư
ớc đo
ạt tính m
ạng c
ủa n
ạn nhân. B
ởi ngay t
ừ đ
ầu thì Kính và đ
ồng ph
ạm c
ủa mình cùng nhau r
ủ đi đánh Hải chứ không có m
ục đích đi gi
ết H
ải, cho nên khi gặp Hải thì Kính đã dùng đá ném H
ải, sau khi ném một viên đá trúng vào đầu Hải thì t
ất cả bỏ ch
ạy, đi
ều này ch
ứng t
ỏ hành vi c
ủa các đ
ối tư
ợng không th
ể hi
ện tính quy
ết li
ệt, t
ới cùng đ
ể tư
ớc đo
ạt sinh m
ạng H
ải. Ngoài ra việc Kính ném đá vào đầu Hải dẫn đến nạn nhân chết thì khi ném Kính chỉ nhằm vào người Hải để ném, không chủ ý vào phần đầu Hải, và sau khi ném đã biết trúng vào đầu Hải thì Kính cùng cả bọn bỏ chạy. Như vậy, điều này thể hiện Kính không có mục đích giết Hải, việc Kính ném trúng vào đầu Hải dẫn đến Hải chết là ngoài ý muốn của Kính. Như v
ậy, v
ề ý th
ức thì Kính nh
ận th
ức rõ hành vi ném đá vào người Hải c
ủa mình có th
ể làm H
ải ch
ết nhưng l
ại không mong mu
ốn h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời x
ảy ra, h
ậu qu
ả này không phù h
ợp v
ới m
ục đích c
ủa Kính, m
ục đích c
ủa Kính cùng đ
ồng b
ọn ch
ỉ là gây thương tích cho H
ải đ
ể tr
ả thù nên trong trư
ờng h
ợp này đ
ịnh t
ội danh là Cố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời là phù h
ợp.
Hay ví dụ vụ Nguyễn Văn Trường cùng đồng phạm phạm tội giết người tại tỉnh Quảng Ngãi
[5]: Khoảng 15 giờ chiều ngày 30/5/2006 Phạm Tấn Phương chở Phạm Cầu đi đám cưới về, khi đi đến đầu xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thì xe của Phương va chạm với xe máy của Nguyễn Văn trường điều khiển chở phía sau là anh Nguyễn Nhạc. Do thấy anh Phạm Cầu dừng xe máy đột ngột làm Trường bất ngờ thắng xe nên ngã, mà anh Cầu không xin lỗi nên Trường bực tức chạy vào lề đường lấy 01 cây gậy gỗ (có đường kính 04cm, dài khoảng 45cm) đánh vào người anh Cầu 02 cái, anh Cầu dùng tay đánh vào cổ Trường, còn Phương thì vào quán nước bên đường lấy 01 ghế nhựa ném vào mặt Trường làm chảy máu môi. Thấy vậy, Nhạc đã xông vào cùng Trường đánh Cầu và Phương. Nhạc đã dùng tay đánh 01 cái vào vai Phương, Trường dùng tay đánh vào đấm vào mặt Phương làm Phương, làm Phương ngã ngửa ra phía sau, đầu đập xuống đường ngất xỉu, sau đó Trường tiếp tục dùng chân đá 02 cái vào người Phương. Còn Nhạc thì đuổi đánh Cầu, Cầu bỏ chạy vào nhà anh Phạm Duy Đối gần đó nên được anh Đối can ngăn nên Nhạc không đánh nữa, Nhạc quay lại chỗ Trường và chở Trường đi về theo hướng chợ Bình Châu. Khi đi được khoảng 100m thì Trường và Nhạc đổi ý không đi về nữa mà quay lại chỗ Phương nằm để đưa Phương đi cấp cứu. Khi đến nơi, thì Trường và Nhạc thấy Phương nằm bất động trên đường nên nâng người Phương dậy bỏ lên xe để đưa đi cấp cứu, lúc này người dân đến xem có nói là Phương đã chết rồi nên Trường và Nhạc bỏ Phương xuống và đi về nhà. Đến sáng ngày 31/5/2006 thì Trường và Nhạc đến Công an xã Bình Châu đầu thú.
Tại kết quả giám định pháp y ngày 12/6/2006 kết luận: nguyên nhân cái chết của anh Phạm Tấn Phương là do chấn thương so não, chảy máu dưới hai màng cứng ở hai bán cầu não.
Kết thúc điều tra, tại bản Cáo trạng số 357/VKS-CT ngày 18/7/2007 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố Nguyễn Nhạc và Nguyễn Văn Trường phạm tội Giết người theo điểm n, khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Tại bản án sơ thẩm số 49/2007/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nhận định: Chỉ vì mâu thuẫn rất nhỏ về việc va chạm xe mà Nhạc và Trưởng đã đánh anh Phạm Tấn Phương và anh Phạm Cầu gậy hậu quả làm anh Phương chết, anh Cầu bị thương. Hành vi của Nhạc và Trường đã phạm tội Giết người theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Nhạc 13 năm tù, Nguyễn Văn Trường 12 năm tù về tội Giết người.
Ngày 25/9/2007 các bị cáo Nguyễn Nhạc và Nguyễn Văn Trường kháng cáo vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo về tội giết người là không đúng, oan cho các bị cáo, vì các bị cáo không có ý thức đánh chết anh Phạm Tấn Phương.
Ngày 21/12/2007 Tòa án phúc thẩm tại Đà Nẵng đã đưa vụ án ra xét xử và nhận định: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận, hậu quả anh Phạm Tấn Phương chết là do hành vi của bị cáo Trường dùng tay đánh vào mặt anh Phương làm anh Phương ngã ngửa đập đầu xuống đường bê tông. Mục đích của các bị cáo là đánh cho bỏ tức chứ không có ý thức đánh chết anh Phương. Như vậy, hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Trường, Nguyễn Nhạc hội đủ các dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên Sửa bản án sơ thẩm, áp dụng khoản 3 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn Trường 11 năm tù, Nguyễn Nhạc 10 năm về tội Cố ý gây thương tích.
Trong vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố và xét xử Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Nhạc về tội Giết người là chưa chính xác, không tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà Trường và Nhạc gây ra. Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Nhạc đều khai rằng khi thực hiện hành vi đánh anh Phạm Tấn Phương thì cả Trường và Nhạc đều không có ý định đánh chết anh Phương, mà chỉ vì bực tức nhất thời mà gây thương tích cho anh Phương. Và lời khai này của các bị can là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án vì:
Thứ nhất, giữa nạn nhân và các bị can không có mâu thuẫn gì sâu sắc, chỉ vì bực tức nhất thời là va chạm giao thông mà gây mâu thuẫn, từ đó xảy dẫn đến việc các bị can đánh anh Phương.
Thứ hai, khi đánh anh Phương các bị can không hề chuẩn bị, hay sử dụng bất cứ hung khí gì tấn công anh Phương mà chỉ sử dụng chân tay, mặc dù hai bên đường có cây gậy và đá gạch. Điều này chứng tỏ các bị can không có ý muốn gây thương tích nặng cho anh Phương.
Thứ ba, sau khi Trường đánh vào đầu anh Phương thì anh Phương bị ngã và đập đầu xuống đường bê tông dẫn đến chấn thương sọ não mà chết. Như vậy, hành vi của Trường và Nhạc không trực tiếp gây ra vết thương trên, mà gián tiếp gây ra, điều này thể hiện việc anh Phương bị đập đầu xuống đường là ngoài ý muốn của các bị can, các bị can khi tấn công anh Phương chỉ mong muốn gây thương tích nhẹ vào mặt anh Phương. Thậm chí, các bị can không hề biết rằng hành vi đấm vào mặt anh Phương đã làm anh Phương đập đầu xuống đường và chấn thương sọ não dẫn đến tử vong.
Thứ tư, sau khi thấy anh Phương gục ngã các bị can đã dừng lại không đánh anh Phương nữa, và bỏ về vì nghĩ rằng anh Phương chỉ bị đấm vào mặt 01 cái nên chắc không để lại hậu quả nghiêm trọng, nhưng khi đi được khoảng 100m thì Trường và Nhạc lo lắng cho anh Phương, sợ anh Phương bị thương nên đã quay lại đưa Phương đi cấp cứu nhưng khi đến thì Phương đã chết. Chứng tỏ hành vi của các bị can không có tính quyết liệt, gây sát thương tới cùng, và khi hậu quả xảy ra các bị can không bỏ mặc hậu quả mà đưa anh Phương đi cấp cứu.
Như vậy, thấy rằng Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Nhạc không có ý định tước đoạt tính mạng anh Phương, mục đích của Trường và Phương chỉ dừng lại việc gây thương tích chứ không phải là giết anh Phương nên việc Phương chết nằm ngoài ý muốn của Trường và Phương, nhưng hậu quả là Phương chết nên Trường và Phương phải chịu trách nhiệm Hình sự về hành vi Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự là phù hợp và tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà Trường và Phương đã gây ra.
Như vậy, trong trường hợp này hành vi phạm tội của người phạm tội là lỗi cố ý, tức người phạm tội cố ý đối với thương tích hay tổn hại sức khỏe của nạn nhân, còn đối với hậu quả chết người xảy ra đối với nạn nhân thì lỗi của người phạm tội chỉ là lỗi vô ý. Và yếu tố lỗi trong trường hợp này được thể hiện qua các hành vi khách quan khác và phù hợp với các chứng cứ có trong vụ án.
N
ếu trong trư
ờng h
ợp y
ếu t
ố l
ỗi không th
ể hi
ện rõ qua các hành vi khách quan hay các ch
ứng c
ứ không đ
ủ cơ s
ở k
ết lu
ận ngư
ời ph
ạm t
ội có ý th
ức tư
ớc đo
ạt tính m
ạng hay ch
ỉ gây thương tích cho n
ạn nh
ận nhưng hành vi khách quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội th
ể hi
ện cư
ờng đ
ộ t
ấn công c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội là quy
ết li
ệt, t
ới cùng, hung khí s
ử d
ụng là nguy hi
ểm, t
ấn công chí m
ạng thì phải buộc hành vi này vào tội Giết người, không phải là c
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời.
Có th
ể ví d
ụ b
ằng vụ Nguy
ễn Đình S
ỹ, Đoàn Văn Quý b
ị Tòa án nhân dân thành ph
ố Đà N
ẵng xét x
ử v
ề t
ội C
ố ý gây thương tích theo kho
ản 3 Đi
ều 104 B
ộ lu
ật Hình s
ự[6]. V
ụ án có n
ội dung như sau:
Do có mâu thu
ẫn t
ừ trư
ớc đó, nên kho
ảng 20 giờ ngày 24/4/2007 Nguy
ễn Đình S
ỹ đã đi tìm Hà Đức Phước để nói chuyện, khi đến đường Trần Phú, thành phố Đà Nẵng thì Sỹ gặp Hà Đức Phước và Nguyễn Minh Quang, tại đây Sỹ đã ch
ủ đ
ộng gây s
ự v
ới Hà Đ
ức Phư
ớc và Nguy
ễn Minh Quang thì b
ị Hà Đ
ức Phư
ớc đánh trả lại nên S
ỹ đã b
ỏ ch
ạy v
ề nhà Đoàn Văn Quý. Tại nhà Quý, Sỹ đã mư
ợn Quý 01 con dao thái lan (có đ
ặc đi
ểm dài kho
ảng 22cm, cán vàng, lư
ỡi dao b
ằng kim lo
ại màu tr
ắng, mũi nh
ọn) và r
ủ Quý cùng đi đánh Phư
ớc, Quang thì Quý đ
ồng ý. Khi đ
ến nơi thì S
ỹ và Quý đ
ến gây s
ự v
ới Phư
ớc, Quang và Hà Hoàng Vi
ệt, thấy hai nhóm gây sự với nhau nên Phước sợ và đã b
ỏ ch
ạy. Th
ấy Phư
ớc b
ỏ ch
ạy thì Sỹ và Quý cũng đi ra v
ề, nhưng đi đư
ợc kho
ảng 5m thì vì ấm ức mâu thuẩn trước đây mà Phước đã đánh Sỹ nên nên S
ỹ và Quý đã quay l
ại tìm Phư
ớc, Quang và Vi
ệt để đánh nhau trả thù. Th
ấy S
ỹ và Quý quay l
ại thì Quang, Phư
ớc và Vi
ệt đã ch
ạy vào xư
ởng gỗ gần đó, Quang, Phước và Việt mỗi người đã l
ấy 01 cây g
ỗ trong xưởng r
ồi xông ra đánh nhau với Sỹ và Quý. Vi
ệt dùng cây g
ỗ đánh vào ngư
ời S
ỹ m
ột cái, S
ỹ dùng tay đ
ỡ, lúc này Quý liền xông vào dùng hai tay k
ẹp c
ổ Vi
ệt và qu
ật ngã Việt xu
ống đư
ờng, sau đó S
ỹ đã dùng tay phải cầ dao đâm nhi
ều nhát vào bụng, lưng và ngực Vi
ệt, Việt đã van xin Sỹ tha cho và cố gắng bỏ chạy nhưng vì bị Quý dùng tay kẹp cổ nên Việt không thoát ra được. Lúc này Phư
ớc và Quang xông đ
ến thì S
ỹ và Quý mới buông Việt ra và b
ỏ ch
ạy. Sau đó Vi
ệt đư
ợc mọi người đưa đi c
ấp c
ứu, nhưng đ
ến ngày 25/4/2007 thì Hà Hoàng Việt ch
ết.
K
ết lu
ận giám đ
ịnh pháp y s
ố 07/KLGĐ ngày 28/4/2007 c
ủa H
ội đ
ồng giám đ
ịnh pháp y thành ph
ố Đà N
ẵng k
ết lu
ận: Hà Hoàng Vi
ệt ch
ết do v
ết thương h
ở ng
ực gây đ
ứt đ
ộng m
ạch c
ột s
ống, th
ủng thùy dư
ới ph
ổi ph
ải, choáng m
ất máu không h
ồi ph
ục, ngưng th
ở, ngưng tim và t
ử vong.
Ngày 12/7/2007 Vi
ện ki
ểm sát nhân dân thành ph
ố Đà N
ẵng đã truy t
ố các b
ị can Nguy
ễn Đình S
ỹ, Đoàn Văn Quý v
ề t
ội C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời theo kho
ản 3 Đi
ều 104 B
ộ lu
ật Hình s
ự.
Ngày 06/11/2007 H
ội đ
ồng xét x
ử Tòa án nhân dân thành ph
ố Đà N
ẵng đưa v
ụ án ra xét x
ử sơ thẩm và nh
ận đ
ịnh r
ằng: Hành vi của các bị cáo phạm tội Giết người theo Điều 93 Bộ luật Hình sự chứ không phạm vào tội Cố ý gây thương tích theo Điều 104 Bộ luật Hình sự. Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày 06/11/2007 các bị cáo đều khai nhận rằng không cố ý tước đoạt sinh mạng của nạn nhân nhưng căn cứ vào hồ sơ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thể hiện ngay từ đầu các bị cáo đã có ý thức mang dao là hung khí nguy hiểm để đi đánh trả thù và thực tế là đã dùng dao đâm vào người Việt nhiều nhát đều ở vị trí nguy hiểm như ngực trước, nách, sau lưng. Hậu quả nạn nhân chết mặc dù được đưa đi cấp cứu kịp thời vấn đề này Tòa đã trả hồ sơ điều tra bổ sung 02 lần yêu cầu xem xét đối với Nguyễn Đình Sỹ và Đoàn Văn Quý về tội giết người nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố về tội Cố ý gây thương tích. Vì vậy, theo giới hạn xét xử Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử các bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo Điều 104 Bộ luật Hình sự. Áp d
ụng kho
ản 3 Đi
ều 104 B
ộ lu
ật Hình s
ự, đi
ểm b, p kho
ản 1, 2 Đi
ều 46, đi
ểm n Đi
ều 48, Đi
ều 69, 74 B
ộ lu
ật Hình s
ự x
ử ph
ạt Nguy
ễn Đình S
ỹ 08 năm tù, Đoàn Văn Quý 05 năm tù.
Ngày 19/11/2007 ông Hà Đ
ức Sum đ
ại di
ện b
ị h
ại kháng cáo yêu c
ầu xét x
ử các Nguyễn Đình Sỹ và Đoàn Văn Quý v
ề t
ội Gi
ết ngư
ời và tăng hình ph
ạt đ
ối v
ới các b
ị cáo Quý và Sỹ.
Ngày 06/3/2008 Tòa án phúc th
ẩm t
ại Đà N
ẵng đã xét x
ử v
ụ án trên theo th
ủ t
ục phúc th
ẩm. Tại B
ản án s
ố 298 ngày 06/3/2008, nh
ận đ
ịnh: Hành vi của các bị cáo phạm tội Giết người theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự chứ không phải tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự như Bản án sơ thẩm đã xét xử. Mặc dù các bị cáo đều khai không cố tình giết Việt nhưng đã có ý Thức ngay từ đầu là mang theo dao là hung khí nguy hiểm, và khi Quý vật ngã Việt, Việt không có khả năng chống cự thì Sỹ đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người Việt ở những vị trí nguy hiểm như trước ngực, dưới nách, sau lưng. Hậu quả là Việt chết. Vì vậy, ch
ấp nh
ận kháng cáo, căn cứ đi
ểm b kho
ản 2 Đi
ều 248, kho
ản 3 Đi
ều 249 Bộ lu
ật T
ố t
ụng Hình sự s
ửa b
ản án sơ th
ẩm, áp d
ụng kho
ản 2 Đi
ều 93, đi
ểm b, p kho
ản 1, kho
ản 2 Đi
ều 46, Đi
ều 69, Đi
ều 74 B
ộ lu
ật Hình s
ự x
ử ph
ạt Nguy
ễn Đình S
ỹ 10 năm tù, Đoàn Văn Quý 06 năm tù v
ề t
ội Gi
ết ngư
ời.
Qua vụ án trên th
ấy r
ằng, m
ặc dù xét v
ề m
ặt ý th
ức ch
ủ quan, v
ề l
ỗi, các b
ị cáo Nguyễn Đình Sỹ và Đoàn Văn Quý đ
ều khai nh
ận r
ằng các b
ị cáo không có ý đ
ịnh tư
ớc đo
ạt m
ạng s
ống c
ủa anh Việt, không mong mu
ốn h
ậu qu
ả là anh Vi
ệt ch
ết nhưng xét v
ề m
ặt khách quan th
ấy r
ằng m
ặc dù các b
ị cáo đ
ều khai là không c
ố tình gi
ết ch
ết anh Vi
ệt nhưng ngay t
ừ đ
ầu các b
ị cáo đã có ý định đi tìm nhóm của Hà Đức Phước để trả thù, và khi đi thì Sỹ đã chu
ẩn bị dao t
ức hung khí nguy hi
ểm, khi Quý k
ẹp c
ổ anh Vi
ệt qu
ật ngã xu
ống đ
ất thì S
ỹ đã dùng dao đâm nhi
ều nhát vào ngư
ời anh Vi
ệt, các nhát này đ
ều đâm ở v
ị trí nguy hi
ểm như trư
ớc ng
ực, dư
ới nách, sau lưng và h
ậu qu
ả làm anh Vi
ệt đ
ứt đ
ộng m
ạch c
ột s
ống, th
ủng thùy dư
ới ph
ổi ph
ải choáng m
ất máu d
ẫn t
ới t
ử vong.
Như v
ậy trong trư
ờng h
ợp này thì c
ần ph
ải xem xét toàn di
ện, không th
ể ch
ỉ căn c
ứ vào l
ời khai c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội là không có ý đ
ịnh tư
ớc đo
ạt m
ạng s
ống c
ủa n
ạn nhân mà k
ết lu
ận ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội; và cho dù nếu các bị có nhận tội thì lời khai đó cũng phải phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án vì “lời nhận tội của các bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án”; và điều này đã được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định tại Điều 72. Trong vụ án này ngư
ời ph
ạm t
ội tức Nguyễn Đình Sỹ cùng đồng phạm của mình là Đoàn Văn quý đã có ý định tìm đánh nhóm của Việt và trước khi đi Sỹ đã chuẩn bị sẵn hung khí, khi tấn công thì Quý kẹp cổ quật ngã Việt khống chế Việt và tạo thuận lợi cho Sỹ dùng dao là hung khí nguy hi
ểm t
ấn công nhiều nhát liên t
ục vào ngư
ời của Việt vào nh
ững nơi tr
ọng y
ếu trên cơ thể là vùng ngực dẫn đến thủng phổi, đứt động mạch mất máu mà chết. Khi Sỹ và Quý dùng dao mà đâm nhiều nhát, đâm vào vùng trọng yếu của nạn nhân thì bắt buộc Sỹ và Quý phải nhận th
ức đư
ợc việc n
ạn nhân ch
ết tất yếu có th
ể x
ảy ra. Vì v
ậy, đây là l
ỗi c
ố ý tr
ực ti
ếp t
ức
người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.[7] Riêng đ
ối v
ới v
ấn đ
ề mong mu
ốn h
ậu qu
ả x
ảy ra thì cũng không nên quá nh
ấn m
ạnh đ
ối v
ới vi
ệc ph
ải có mong mu
ốn h
ậu qu
ả x
ảy ra, b
ởi l
ẽ khi ngư
ời ph
ạm t
ội đã nh
ận th
ức đư
ợc tính ch
ất, m
ức đ
ộ c
ủa hành vi mình gây ra có th
ể làm n
ạn nhân ch
ết nhưng v
ẫn th
ức hi
ện quy
ết li
ệt t
ới cùng như trong vụ án trên thì Sỹ và Quý dùng dao đâm liên tục, m
ặc dù Việt đã cố gắng bỏ chạy nhưng Quý đã kẹp cổ Việt, tạo thuận lợi cho Sỹ đâm Việt mặc cho nạn nhân đã van xin, cho đến khi Việt hoàn toàn ngã gục và Hà Đức Phước và Nguyễn Minh Quang xông đến thì Quý và Sỹ mới dừng lại và bỏ đi… Điều này chứng tỏ Sỹ và Việt mong muốn hậu quả chết người phải xảy ra.
Cho nên, khi xác đ
ịnh l
ỗi trong trư
ờng h
ợp này m
ặc dù các b
ị cáo đ
ều khai là không mu
ốn tư
ớc đo
ạt m
ạng s
ống c
ủa nạn nhân, vi
ệc n
ạn nhân ch
ết là ngoài ý mu
ốn c
ủa người phạm tội, nhưng thông qua hành vi ph
ạm t
ội c
ủa các b
ị cáo thì không th
ể đ
ịnh t
ội danh trong trư
ờng h
ợp này là C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời theo Đi
ều 104 Bộ luật hình sự, b
ởi n
ếu đ
ịnh t
ội danh C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời là không tương x
ứng v
ới tính ch
ất, m
ức đ
ộ hành vi và h
ậu qu
ả mà các đ
ối tư
ợng đã gây ra mà ph
ải đ
ịnh t
ội danh là Gi
ết ngư
ời theo Đi
ều 93 B
ộ lu
ật Hình s
ự.
Hay tương tự như vụ Rơ Lan Chính cùng đồng phạm phạm tội Giết người tại bản án số 40/2016/HSST ngày 14/7/2016 do Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử
[8]:
Vào khoảng 19 giờ ngày 10/10/2014 Rơ Lan Chính, R Mah Hlit, Rơ Lan Canh, Kpă Pir, Siu Gươn, Rơ Châm Mới, Siu Ty, Siu lem, Rơ Mah Gi, Siu Tinh, Rơ Lan Bơng và Rơ Lan Thức đi dự đám cưới tại nhà ông Siu Mak ở làng A, xã Gào, thành phố Pleiku. Tại đám cưới còn nhóm của Nguyễn Văn Giang gồm Giang, Trần Tuấn Anh, Nguyễn Đức Lập, Đỗ Minh Thạch và Hoàng Văn Thành.
Đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì nhóm của Rơ Lan Chính đi về trước, nhóm Giang về sau. Khi ra đến cổng rạp cưới thì nhóm Giang gặp nhóm Chính, Giang nói “cho anh đi nhờ cái” thì một người trong nhóm chính nói “gì mày” thì Giang quát to “tụi mày tránh ra cho anh đi nhờ cái” thì nhóm của Chính tránh ra cho Giang về.
Sau khi đi về thì do bực tức nhóm Chính đứng cản đường nên Giang rủ Tuấn Anh, Thạch và Thành đi đánh nhóm Chính. Tất cả đồng ý. Giang cầm theo 01 cây rựa và 01 cây gỗ, Anh và Thạch mỗi người cầm theo 01 cây gỗ đi tìm nhóm Chính đánh. Khi nhóm ra đến quốc lộ 19 thi gặp nhóm Chính, cả nhóm Giang đuổi đánh nhóm Chính thì cả nhóm Chính bỏ chạy, thấy nhóm Chính bỏ chạy thì nhóm Giang đi về.
Khi về nhà thì Giang tiếp tục rủ Tuấn Anh, Thành và Thạch đi đánh nhóm của Chính, riêng Thạch không tham gia nữa mà ở nhà uống rượu cùng anh Thiên, anh Biển cùng trú tại xã Bầu Cạn, huyện Chư Prong, tỉnh Gia Lai.
Sau khi bị nhóm Giang đuổi đánh, nhóm Chính chạy về đám cưới, lúc này Rơ Mah Lít, Siu Lem, Siu Ty, Siu Bi đi tìm và nhặt được một số cây gỗ ben đường, còn Rơ Châm Mới, Kpă Pir, Rơ Mah Gi bẻ cây ben hàng rào bên lề đường để phòng thân trên đường về và cùng nhau đi về xã Thăng Hưng, huyện Chư Prong. Khi đi đến ngã ba quốc lộ 19 thì bị nhóm Giang chặn đánh. Giang cầm rựa đuổi theo Siu Lem, Lem bỏ chạy và vứt cây. Do không đánh được Lem nên Giang quay lại rủ Tuấn Anh, Thành đuổi đánh nhóm Chính thì Chính hô to “đuổi đánh lại chúng nó”. Nghe Chính hô thì cả bọn quay lại đuổi đánh nhóm Giang. Lúc này Chính nhặt được 01 tấm ván dài khoảng 01m, rộng 20cm và đuổi theo nhóm Giang, Siu Lem thấy cả nhóm quay lại thì Lem cũng nhặt một khúc cây quay lại đuổi đánh nhóm Giang.
Khi đến trước cổng nhà Rông thì Chính đuổi kịp Giang, Giang cầm dao rựa để đánh lại Chính thì bị Chính cầm tấm ván đánh mạnh hai cái từ trên xuống dưới trúng vào đầu, cổ vai Giang làm Giang ngã xuống đường xuống đường, sau đó Chính vứt tấm ván xuống đường. Ngay lúc này, K Pă Pir cầm gậy đến đánh 01 cái vào hông anh Giang, Siu Ty thấy Giang nằm nghiêng, tay phải vẫn cầm rựa nên thì Ty cầm cây đánh hai cái vào tay Giang rồi lấy dao từ tay Giang. Lúc này anh Giang đang dùng tay ôm đầu thì Siu Lem, Siu Bi, Siu Gươm, Rơ Châm Mới, Rơ Mah Gi cầm cây đánh đánh vào vai, tay Giang. Lúc nay Rơ Lan Canh điều khiển xe máy chở Rơ Mah Hlit đuổi theo đánh Thành và Tuấn Anh được 30 phút thì quay lại, khi Canh dừng xe, Hlit nhảy xuống xe cầm cây đánh vào vai và lưng Giang. Khi đó Siu Hưng nói “thôi về đi” thì cả bọn ra về.
Sau khi chạy về nhà không thấy Giang đâu thì Tuấn Anh và Thành quay lại tìm Giang thì thấy nhóm Chính bỏ đi, còn Giang nằm ngất xỉu trên đường nên đã đưa Giang đi cấp cứu. Đến 23 giờ ngày 11/10/2014 thì Nguyễn Văn Giang chết tại bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai.
Tại kết luận giám định pháp y số 40/TTPY ngày 12/12/2014 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Gia Lai kết luận nguyên nhân Nguyễn Văn Giang chết do chấn thương sọ não nặng do vật tày dẫn đến tử vong.
Tại bản cáo trạng số 92/KSDTD-TA ngày 17/6/2015 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đề nghị truy tố các bị can Rơ Mah Hlit, Rơ Lan Chính, Rơ Lan Canh, siu Lem, Siu Ty, Siu Bi, Rơ Châm Mới, K pă Pir, Siu Gượm và Gơ Mah Gi về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Ngày 20/8/2015 Tòa án nhân thành phố Pleiku ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung vì cho rằng: Chứng cứ trong vụ án cho thấy hành vi của các bị can đã thực hiện là cấu thành tội tội Giết người. Căn cứ vào tương quan lực lượng, sự mãnh liệt trong tấn công và thời gian địa điểm các bị can đánh bị hại, cho thấy các bị can bất chấp, bỏ mặc hậu quả xảy ra. Nên hậu quả đến đâu, xử lý đến đó, hậu quả bị hại chết, trong trường hợp này các bị can phạm vào lỗi cố ý gián tiếp về tội Giết người.
Ngày 30/9/2015 Viện kiểm sát Pleiku tiếp tục giữ nguyên quan điểm truy tố Rơ Mah Hlit cùng đồng phạm phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Vì mục đích của các bị can khi đánh nạn nhân Nguyễn Văn Giang là để trả thù vì Giang đã có mâu thuẫn với các bị can trong khi dự đám cưới, các bị can đều không có ý định đánh chết Giang, việc Giang chết là ngoài ý muốn của các bị can, nên hành vi của các bị can không cấu thành tội Giết người theo Điều 93 mà chỉ phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự.
Ngày 30/12/2015 Tòa án nhân dân tỉnh Gia lai tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung để Viện kiểm sát thành phố Pleiku giải quyết theo thẩm quyền để xem xét, điều tra, truy tố bị can Rơ Mah Hlit cùng đồng phạm về tội Giết người theo quy định tại Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Ngày 31/12/2015 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Công an thành phố Pleiku để chuyển Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai để điều tra, truy tố vụ án trên theo thẩm quyền về tội Giết người theo Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Ngày 06/4/2016 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố Rơ Mah Hlit cùng đồng phạm về tội Giết người theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Ngày 29/9/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã xét xử vụ án trên theo như đề nghị truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai về tội Giết người theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Qua vụ án thấy rằng, Viện kiểm sát nhân dân Pleiku truy tố các bị can về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự là không chính xác. Bởi lẽ: mặc dù các bị can đều can khai rằng các bị can không có ý thức đánh chết anh Nguyễn Văn Giang, việc anh Giang chết không phải mục đích hướng tới của các bị can. Nhưng từ lời khai của các bị can và các chứng cứ có liên quan trong vụ án thấy rằng khi các bị can sử dụng cây gậy gỗ tấn công vào nạn nhân thì các bị can phải ý thức được rằng đây là hung khí nguy hiểm, khi tấn công thì có khả năng dẫn đến giết người nhưng các bị can vẫn thực hiện. Khi thực hiện hành vi tấn công, thì sau khi bị can Rơ Lan Chính đánh vào đầu anh Giang theo hướng từ trên xuống dưới khiến anh Giang gục ngã thì các bị can lại tiếp tục dùng cây gậy gỗ đánh nhiều cái vào người anh Giang cho đến khi anh Giang gục hẳn chứng tỏ hành vi phạm tội của các bị can là quyết liệt, tới cùng. Sau đó tất cả bỏ đi, bỏ mặc anh Giang bất tỉnh nằm đó mà không đi cấp cứu tức các bị can bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Trong trường vụ án này, vấn đề bị tranh chấp, bất đồng quan điểm giữa Viện kiểm sát thành phố Pleiku và Tòa án nhân dân thành phố Pleiku đó là yếu tố lỗi, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku cho rằng các bị can không có ý thức tước đoạt tính mạng, việc nạn nhân chết là ngoài ý muốn của các bị can. Nhưng ý thức là được phản ánh qua hành vi, và qua các hành vi thực hiện tội phạm trên chứng tỏ việc các bị can không chỉ dừng lại ở cố ý gây thương tích mà phải là giết người. Nếu các bị can chỉ mong muốn gây thương tích cho nạn nhân thì ngay sau khi bị đánh một cái vào đầu, anh Giang gục ngã xuống thì các bị can phải dừng lại và đưa nạn nhân đi cấp cứu, nhưng trong vụ án này 10 bị can tiếp tục dùng cây đánh rất nhiều cái vào người anh Giang gây ra đa vết thương, đến khi nạn nhân gục hẳn thì các bị can mới dừng lại và bỏ mặc nạn nhân nằm bất tỉnh đó rồi đi về. Cho nên, chỉ dựa vào lời khai của các bị can là không có ý định tước đoạt mạng sống của nạn nhân xác định đây là hành vi Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người là không chính xác mà phải đưa lời khai đó vào cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ để xác định được là người phạm tội có mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân, hay là cho dù các bị cai khai không mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân nhưng lại bỏ mặc nạn nhân, không để nạn được cấp cứu kịp thời dẫn đến hậu quả nạn nhân chết thì phải giết người.
Nói tóm lại, đối với vấn đề lỗi trong định tội danh đối với hành vi Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người là hết sức quan trọng. Lỗi ở đây trước hết là lỗi cố ý, người phạm tội đều phải nhận thức được họ đang thực hiện hành vi gây thương tích và hành vi này là nguy hiểm cho xã hội. Họ cũng phải thấy trước hậu quả là thương tích sẽ xảy ra khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, xét về ý chí thì người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, mà hậu quả chỉ dừng lại là gây thương tích cho nạn nhân, việc nạn nhân chết không phải là mục đích hướng tới của người phạm tội. Và để xác định rõ ranh giới giữa “mong muốn hậu quả chết người xảy ra” hay không mong muốn hậu quả chết người” xảy ra thực sự không đơn giản, bởi lỗi nằm trong mặt chủ quan, nó ẩn phía bên trong suy nghĩ của người phạm tội nên khó mà nhìn thấy được. Tuy nhiên những biểu hiện bên trong suy nghĩ của người phạm tội thường thể hiện qua hành vi khách quan bên ngoài, vì vậy muốn biết được cái bên trong thì cần phân tích, tổng hợp và đánh giá thì cần phân tích mặt khách quan và việc này phải được đánh giá một cách đồng bộ, thống nhất với các tài liệu, chứng cứ khác trong vụ án như phương tiện, công cụ khi dùng để tấn công, vị trí tấn công, cường độ tấn công…
2. Hạn chế và phương hướng, giải pháp hoàn thiện đối với xác định lỗi trong việc định tội danh đối với hành vi Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người Đ
ối v
ới vi
ệc xác đ
ịnh l
ỗi thì ở đây c
ần kh
ẳng đ
ịnh r
ằng ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội ch
ỉ mong mu
ốn, ho
ặc đ
ể m
ặc cho h
ậu qu
ả thương tích x
ảy ra đ
ối v
ới nạn nhân, vi
ệc n
ạn nhân ch
ết là “n
ằm ngoài mong mu
ốn” c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội, tức mục đích của người phạm tội là gây thương tích cho nạn nhân, việc nạn nhân chết không phải là mục đích hướng tới của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội. Cho nên vi
ệc xác đ
ịnh đư
ợc vi
ệc gây thương tích cho b
ị h
ại có “n
ằm trong mong muốn” c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội hay không, nếu có thì đó là t
ội Gi
ết ngư
ời, còn ngư
ợc l
ại n
ếu h
ậu qu
ả ch
ết ngư
ời không “n
ằm trong mong muốn” ngư
ời ph
ạm t
ội thì là C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời.
Nhưng để xác định khi thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội có nhận thức được hành vi của mình có nguy hiểm cho xã hội hay không, có thấy trước hậu quả chết người sẽ xảy ra không và có mong muốn để hậu quả chết người xảy ra không là hết sức khó khăn, bởi:
Th
ứ nh
ất, t
ội c
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời và m
ột s
ố t
ội khác như gi
ết ngư
ời đ
ều có chung h
ậu qu
ả là ch
ết ngư
ời và s
ự tác đ
ộng về m
ặt khách quan như dùng hung khí nguy hiểm, tấn công bằng cách đâm, chém đánh… mà pháp lu
ật hình s
ự l
ại không quy đ
ịnh rõ ràng các đ
ặc đi
ểm đ
ặc trưng c
ủa t
ừng t
ội nên d
ẫn đ
ến s
ự nh
ầm l
ẫn, khó phân bi
ệt khi đ
ịnh t
ội danh.
Th
ứ hai, các cơ quan ti
ến hành t
ố t
ụng khó ch
ứng minh rõ ràng đư
ợc ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội, trong khi đó trên th
ực t
ế ngư
ời ph
ạm t
ội luôn luôn khai nh
ận r
ằng ch
ỉ mong mu
ốn gây thương tích cho nạn nhân, vi
ệc n
ạn nhân ch
ết là ngoài mong mu
ốn c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội, cho dù l
ời khai nh
ận này hoàn toàn mâu thu
ẫn v
ới t
ất c
ả các ch
ứng c
ứ khác có trong h
ồ sơ.
Th
ứ ba, vi
ệc nh
ận th
ức và đánh giá v
ề m
ặt ch
ủ quan t
ức ý th
ức ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội c
ủa các cơ quan ti
ến hành t
ố t
ụng còn quá ph
ụ thu
ộc vào ý chí ch
ủ quan c
ủa ngư
ời ti
ến hành t
ố t
ụng, bởi chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể nên khi đánh giá hành vi phạm tội người tiến hành tố tụng thường đánh giá theo quan điểm cá nhân. Đ
ặc bi
ệt, khi gi
ữa tội gi
ết ngư
ời và tội c
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời có nhiều quan điểm khác nhau, mà khi quy
ết đ
ịnh hình ph
ạt thì do t
ội gi
ết ngư
ời có tính chất đặc biệt nguy hiểm hơn nên có hình ph
ạt h
ết s
ức nghiêm kh
ắc, m
ức cao nh
ất là t
ử hình nên ngư
ời ti
ến hành tố tụng thư
ờng ch
ọn “gi
ải pháp an toàn” là đ
ịnh t
ội C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời cho dù hành vi đó mang d
ấu hi
ệu c
ủa t
ội gi
ết ngư
ời.
Như v
ậy, trong quá trình đ
ịnh t
ội danh trong các v
ụ án C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời thì các các cơ quan ti
ến hành t
ố t
ụng còn chưa xác đ
ịnh rõ ràng đư
ợc l
ỗi c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội, d
ẫn đ
ến s
ự thi
ếu sót trong vi
ệc đ
ịnh t
ội danh, t
ừ đó đưa ra các quan đi
ểm x
ử lý v
ụ án còn chưa có s
ự th
ống nh
ất trong quá trình áp d
ụng pháp lu
ật. Vì v
ậy, tác gi
ả đ
ề xuất m
ột s
ố gi
ải pháp hoàn thi
ện như sau:
Th
ứ nh
ất, B
ộ lu
ật hình s
ự c
ần quy đ
ịnh rõ ràng khái ni
ệm thế nào là tội C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời vào trong đi
ều lu
ật, trong ph
ần lý lu
ận chung c
ần xác đ
ịnh c
ụ thể c
ấu thành t
ội ph
ạm c
ủa t
ội danh này.
Th
ứ hai, các cơ quan có th
ẩm quy
ền c
ần ban hành các văn b
ản hư
ớng d
ẫn thống nhất c
ụ th
ể đ
ể phân bi
ệt rõ các d
ấu hi
ệu đ
ặc trưng cơ b
ản gi
ữa t
ội C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời và Gi
ết ngư
ời, như căn cứ vào hành vi phạm tội, công cụ thực hiện tội phạm, vị trí tấn công trên cơ thể nạn nhân, cường độ tấn công, thời gian, không gian thực hiện tội. Đặc biệt phải xem xét ý thức chủ quan của người phạm tội đối với những yếu tố tạo nên khả năng chết người và thái độ của người phạm tội đối với hậu quả đó. Có thể cụ thể như sau:
Nếu người phạm không có mục đích giết người, trong quá trình hành động chỉ mong muốn gây ra thương tích cho nạn nhân, nhưng nạn chết thì định tội danh Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. Người phạm không có mục đích giết người nhưng trong quá trình hành động biết rằng hành vi của mình tất yếu sẽ làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện thì định tội danh là Giết người.
Nếu người phạm tội chỉ mong muốn gây thương tích cho nạn nhân nhưng sử dụng hung khí nguy hiểm hoặc kể cả sử dụng chân tay tấn công vào các vị trí hiểm yếu trên cơ thể của nạn nhận hoặc trong điều kiện, hoàn cảnh gây nguy hiểm cao… làm nạn nhân chết thì phải định tội danh Giết người. Nếu người phạm tội chỉ mong muốn gây thương tích cho nạn nhân, hành vi ít nguy hiểm, tính chất và cường độ tấn công không quyết liệt nhưng hậu quả chết người vẫn xảy ra thì là trường hợp Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.
Khi đi vào chi tiết của vụ án cần phải phân biệt rõ những tình tiết liên quan trong vụ án như: người phạm tội sử dụng hung khí như thế nào? Dao hay cây gậy? nếu là dao thì dao lớn hay nhỏ, sắc bén hay cùn, nếu là cây gậy thì cây to, chắc hay nhỏ, mềm, dễ gãy; Người phạm tội tấn công như thế nào? Mạnh hay nhẹ? Cường độ tấn công ra sao, có quyết liệt, truy sát tới cùng hay không; Tấn công vào vị trí nào trên cơ thể nạn nhân? Khoảng cách tấn công như thế nào? Đứng từ xa ném đá hay dứng sát nạn nhân chém. Đồng thời kết hợp với các yếu tố về nhân thân như: người phạm tội có trình độ nhận thức như thế nào, có tiền án, tiền sự gì chưa? Mối quan hệ với nạn nhân như thế nào? Quan hệ xã hội của người phạm tội như thế nào? Thái độ của người phạm tội trước khi thực hiện hành vi phạm tội ra sao, sau khi thực hiện hành vi ra sao? Từ đó đưa ra những nhận định chính xác và phù hợp với tội danh mà mình lựa chọn.
Kết luận Đ
ể đ
ịnh t
ội danh đ
ối v
ới hành vi C
ố ý gây thương tích d
ẫn đ
ến ch
ết ngư
ời thì c
ần chứng minh rõ l
ỗi c
ủa ngư
ời ph
ạm t
ội. Để làm được điều này cần xem xét các yếu tố phản ánh ý thức chủ quan của người phạm tội một cách khách quan, toàn diện, đồng thời đặt yếu tố lỗi cùng các yếu tố khách quan khác có trong vụ án đó, phân bi
ệt các y
ếu t
ố gi
ống và khác nhau v
ới các t
ội danh khác đ
ể tránh s
ự nh
ầm l
ẫn v
ề t
ội danh.
Đ
ể làm đư
ợc đi
ều này c
ần thi
ết ph
ải hoàn thi
ện các quy đ
ịnh c
ủa B
ộ lu
ật Hình s
ự cũng như ban hành các văn b
ản hư
ớng d
ẫn m
ột cách c
ụ th
ể, chi ti
ết hơn v
ề các d
ấu hi
ệu c
ủa lo
ại t
ội ph
ạm này như đã đã ki
ến ngh
ị trên, ho
ặc ban hành các án l
ệ đ
ể các cơ quan ti
ến hành t
ố t
ụng có s
ự th
ống nh
ất trong vi
ệc áp d
ụng pháp luật./.
Tác giả: Thạc sỹ Thái Thị Thanh Huyền - Viện KSND tỉnh.