Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Sáng kiến: Các giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu của tỉnh Gia Lai

Thứ năm - 21/12/2017 20:53 3.055 0
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp.

1. Sự cần thiết phải áp dng sáng kiến

Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong những năm qua, đất nước ta đã có những bước tiến vượt bậc về kinh tế, xã hội, đời sống vật chất và tình thần của nhân dân được cải thiện rất đáng kể. Bên cạnh thành tựu đã đạt được, những ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ với tính chất và hậu quả nghiêm trọng hơn. Kết quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong những năm gần đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững thành quả cách mạng và tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TƯ về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thể hiện quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong cải cách tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được trao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung, trong điều tra vụ án hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần có hiệu quả vào việc giáo dục ý thức pháp luật. Kết quả điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc truy tố và xét xử của tòa án được đúng đắn.
Gia Lai là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Nguyên của nước ta, với diện tích 15.536,92 km², dân số 1.322.000 người (điều tra dân số đến năm 2011) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong những năm qua, các cơ quan tố tụng tỉnh Gia Lai, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân, về cơ bản đã hoạt động hiệu quả, đóng góp tích cực vào công tác đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế so với yêu cầu cải cách tư pháp. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau như nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra chưa đầy đủ, nhưng trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật và năng lực của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân còn nhiều hạn chế. Việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai còn nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Có như vậy việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai mới đạt kết quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Đồng thời, từ góc độ lý luận, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu về vấn đề thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu của các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai. 

2. Giải pháp

2.1. Giải pháp về nhận thức   

Có thể nói, việc nắm vững đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và pháp luật của Nhà nước là một yêu cầu khách quan bắt buộc trong hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tất cả các vụ án hình sự nói riêng của Viện kiểm sát. Bản chất của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đòi hỏi các Viện kiểm sát phải đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp trong việc quyết định có truy tố hay không truy tố người phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Để làm được điều đó, Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Gia Lai phải nắm vững pháp luật, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và trước hết là trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát hai cấp sẽ không thể thực hiện tốt chức năng nếu trong nhận thức và áp dụng pháp luật không quán triệt đầy đủ, thấu đáo quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và các yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đòi hỏi các Viện kiểm sát phải quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; đồng thời phải cập nhật được các văn bản pháp luật, nắm vững nội dung cũng như tinh thần từng điều luật cụ thể để áp dụng trong hoạt động thực tiễn.
Ngoài ra thông qua thực tiễn công tác, cần tham mưu cho cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp trong lãnh đạo, tổ chức hệ thống tư pháp; giải quyết các mối quan hệ; thực hiện các bảo đảm cho Viện kiểm sát các cấp thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án về tội xâm phạm sở hữu.

2.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực thi pháp luật

2.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu
Bộ luật hình sự là một đạo luật lớn, sau một thời gian thi hành đã có những đóng góp quan trọng, thể hiện khá toàn diện chính sách hỉnh sự của Đảng, Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, các cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó vẫn còn bọc lộ một số tồn tại như bất cập trong việc khởi tố vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu mà chủ sở hữu tài sản không muốn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Chúng tôi cho rằng cần bổ sung một số hành vi phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm quan hệ sở hữu vào trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại theo Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể, cần bổ sung khoản 1 Điều 173, Điều 176, Điều 177, Điều 180 Bộ luật hình sự năm 2015 vào khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quy định như vậy sẽ phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt về tài sản của chủ sở hữu, đồng thời giải quyết một số vướng mắc trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay là không ít trường hợp những người thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản và người sở hữu tài sản là những người thân trong gia đình. Khi chưa biết người thực hiện hành vi thì cương quyết báo cáo và yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm, nhưng khi biết người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu của mình chính là người thân trong gia đình thì không muốn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Ngoài ra, cũng có trường hợp giữa người thực hiện hành vi phạm tội và bị hại tuy không có quan hệ gia đình, nhưng khi biết hoàn cảnh của người thực hiện hành vi phạm tội, chủ sở hữu thông cảm và tự nguyện không mong muốn truy cứu trách nhiệm đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, để đảm bảo tính hướng thiện của pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả của hình phạt; thiết nghĩ, cần trao quyền quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu đối với các tội trên cho bị hại. Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định đối với người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng mà được bị hại hoặc đại diện của bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định trên về cơ bản đáp ứng yêu cầu đảm bảo pháp luật có tính linh động để vận dụng áp dụng trong những trường hợp xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự, đảm bảo chế tài hình sự đạt được hiệu quả xã hội. Nhưng với quy định tùy nghi nêu trên dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật, phát sinh những tiêu cực xã hội. Do đó, như đã đề cập theo chúng tôi đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu ít nghiêm trọng cần cho vào trường hợp khởi tố theo yêu cầu người bị hại.

2.2.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
Trong những năm qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã đáp ứng phần nào yêu cầu về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Những thành công của việc thi hành Bộ luật đã khẳng định và nêu cao trách nhiệm của Nhà nước với công dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, đảm bảo xử lý nhanh gọn, kịp thời hành vi phạm tội. Tuy nhiên, như đã phân tích trên, trong thực tiễn thi hành Bộ luật còn phát sinh nhiều tồn tại, cần được xem xét, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn và để đáp ứng được yêu cầu thực hành quyền công tố đúng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Với lý do đó, trong năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội khóa 13 thông qua vào ngày 27 tháng 11 năm 2015. Về cơ bản Bộ luật này đã giải quyết những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Những sửa đổi, bổ sung của Bộ luật này đã giúp nâng cao vị thế, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy vậy, liên quan đến việc đảm bảo cho Viện kiểm sát ngày càng thực hiện tốt hơn nữa chức năng công tố trong giai đoạn điều tra, đồng thời giải quyết triệt để những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà chưa được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 khắc phục, trong phạm vi nghiên cứu liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự các tội xâm phạm sở hữu, người viết mạnh dạn đề xuất những giải pháp pháp luật để tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự xâm phạm sở hữu.
          - Về khởi tố vụ án hình sự: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trên cơ sở tiếp thu quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã giải quyết những khó khăn, bất cập trong thực tiễn thi hành, đồng thời để đảm bảo phù hợp với quy định Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cho Viện kiểm sát trong trường hợp trực tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được kịp thời khởi tố, điều tra và xử lý nghiêm minh, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chúng tôi cho rằng cần bổ sung thẩm quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát trong trường hợp “đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án nhưng không được thực hiện” vào khoản 3 Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quy định trên sẽ phù hợp với Điều 162 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bởi theo Bộ luật này thì yêu cầu khởi tố vụ án của Viện kiểm sát không bắt buộc Cơ quan điều tra phải thực hiện.
          Ngoài ra, như đã trình bày chúng tôi cho rằng không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cho Hội đồng xét xử nữa bởi trong thực tiễn thi hành hai Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và 2003 vừa qua có rất ít trường hợp Hội đồng xét xử trực tiếp quyết định khởi tố vụ án hình sự mà chủ yếu kiến nghị, yêu cầu Viện kiểm sát xem xét khởi tố. Theo đó, cần sửa đổi quy định khoản 4 Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Hội đồng xét xử kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Việc bỏ quyền năng này của Hội đồng xét xử, theo chúng tôi sẽ phù hợp với chức năng tố tụng của Tòa án được Hiến pháp năm 2013 quy định; đảm bảo cho Tòa án tập trung thực hiện chức năng xét xử, không tham gia thực hiện chức năng buộc tôi; đảm bảo vụ án được xem xét và phán quyết khách quan, đúng pháp luật.
          - Về thẩm quyền khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can:
          Việc ra quyết định khởi tố bị can là để tiến hành điều tra với một người phạm tội mà cơ quan có thẩm quyền chưa hoàn toàn có đủ chứng cứ chứng minh họ đã phạm tội, và cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can ngoài Cơ quan điều tra còn có Viện kiểm sát, do vậy cần sửa đổi khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người bị nghi thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can”.
          Ngoài ra, việc quy định thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là cần thiết để phù hợp với hành vi của bị can, đảm bảo chính xác đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, định hướng đúng đắn cho quá trình chứng minh và bảo đảm quyền bào chữa cho bị can. Tuy nhiên, để tránh tình trạng truy tới cùng, tức khi xác định hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố, các cơ quan tố tụng “chữa cháy” bằng cách thay đổi quyết định khởi tố bị can một cách tùy tiện. Theo đó, cần sửa đổi Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Khi tiến hành điều tra nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can về tội có cùng tính chất. Trường hợp xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào tội khác không cùng tính chất thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can về tội danh đã khởi tố và ra quyết định khởi tố bị can về tội danh mới để tiến hành điều tra nếu đủ căn cứ”. Ví dụ, trong quá trình trộm cắp tài sản, khi bị phát hiện đối tượng dùng vũ lực để tẩu thoát gây thương tích cho bị hại. Lúc đầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can về tội trộm cắp tài sản, qua quá trình điều tra không đủ căn cứ truy cứu tội danh này đối với bị can. Trường hợp này Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với tội trộm cắp; nếu hành vi của bị can đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích, hoặc vô ý gây thương tích thì khởi tố mới vụ án, bị can để điều tra đối với tội danh này.
          - Để đảm bảo việc điều tra, thu thập các tài liệu, chứng cứ trong những trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can được khách quan, toàn diện thì cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng bổ sung cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao “có thẩm quyền điều tra những vụ án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được Viện kiểm sát các cấp khởi tố vụ án, khởi tố bị can yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra nhưng không được đảm bảo”. Bởi thực tế hiện nay, Viện kiểm sát chỉ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can sau khi Việt kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hoặc đã yêu cầu khởi tố bị can nhưng không được thực hiện… nên khi Viện kiểm sát khởi tố và chuyển lại để điều tra thì Cơ quan điều tra tiếp nhận với tâm lý miễn cưỡng, thường không tập trung điều tra, thu thập chứng cứ mà chậm trễ, kéo dài thời gian điều tra. Do vậy, nhiều vụ án, bị can phải đình chỉ điều tra dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Theo chúng tôi, quy định bổ sung thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong trường hợp nêu trên sẽ giải quyết được bất cập đã nêu, đồng thời phù hợp với lộ trình cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đang đề ra.
          Khi nghiên cứu về thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự, chúng tôi thấy rằng việc quy định quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát tại điểm c, điểm d, khoản 1 Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là không phù hợp bởi đây là quyền năng tố tụng chứ không phải thẩm quyền hành chính trong cơ quan tư pháp. Vì vậy, nên tách thẩm quyền ý cuối điểm c “quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ quyết định không có căn và trái pháp luật của Kiểm sát viên” và điểm d, khoản 1 Điều 41 chuyển sang khoản 2 Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
          - Về trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát. Để thực hiện tốt chủ trương “thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” và chủ trương “Tăng cường công tố trong hoạt động điều tra” được nêu trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, cần quy định Cơ quan điều tra chịu trách nhiệm thu thập chứng cứ, chứng minh sự thật vụ án, Viện kiểm sát đề ra các yêu cầu điều tra, yêu cầu chứng minh ngay từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can và trong suốt quá trình điều tra. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu quyết định của Viện kiểm sát; mọi yêu cầu của Viện kiểm sát về chứng minh tội phạm phải được Cơ quan điều tra tiến hành đầy đủ, nếu không đồng ý vẫn phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị đến Viện kiểm sát cấp trên xem xét, giải quyết. Theo đó, cần sửa đổi Điều 162 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
          “1. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát.
          2. Đối với quyết định quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 159, điểm b khoản 1 Điều 161 của Bộ luật này, nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp…”.
          - Thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Thực hiện chủ trương “thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam” theo Nghị quyết 49/NQ-TW, Bộ luật tố tụng hình sự cần phải sửa đổi theo hướng hạn chế đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, chúng tôi cho rằng để đơn giản thủ tục, tiết kiệm chi phí, nâng cao tinh trần trách nhiệm, tránh đùn đẩy trách nhiệm, cần đổi mới đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam theo hướng: Viện kiểm sát quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố (thực chất hiện nay, Viện kiểm sát phê chuẩn tức là Cơ quan điều tra xin lệnh) và Tòa án áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử. Theo đó, cần bỏ khoản 1 Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; cần thay đổi khoản 5, Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:“Viện kiểm sát quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc tự mình quyết định trong giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố; tòa án quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định tạm giam hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can hoặc thông báo cho Cơ quan điều tra biết việc không áp dụng biện pháp tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc quyết định áp dụng biện pháp tạm giam”.
          Tương tự với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can để thay thế biện pháp tạm giam như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 121, Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cũng cần quy định Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất quyết định việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này trong giai đoạn điều tra, truy tố trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc khi xét thấy cần thiết.

2.2.3. Hướng dẫn áp dụng pháp luật
Triển khai thi hành các Bộ luật mới là việc đảm bảo đưa các quy định của các Bộ luật đó vào thực tiễn thi hành, làm sao cho quá trình thi hành pháp luật một cách có hiệu quả nhất, hạn chế đến mức thấp nhất những vướng mắc, bất cập phát sinh. Để làm được điều này cần quán triệt áp dụng những quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự năm 2015, đồng thời kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản hướng dẫn thi hành các Bộ luật mới về hình sự để đảm bảo áp dụng thống nhất, phù hợp và đúng pháp luật.
Các ngành, Liên ngành tố tụng trung ương cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Cụ thể:
          - Sửa đổi, bổ sung TTLT số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Bộ tư pháp - Bộ Công an - TAND tối cao - Viện KSND tối cao về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với “các tội xâm phạm sở hữu”.
          - Sửa đổi, bổ sung TTLT 05/2005/ VKSTC-BCA-BQP ngày 07 tháng 9 năm 2005 của Viện KSND Tối cao - Bộ công an - Bộ quốc phòng về mối quan hệ phối hợp của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Luật TTHS năm 2003.
          - Bộ công an cần sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2006/TT-BCA ngày 12 tháng 01 năm 2006 của Bộ công an hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Điều 35 BLTTHS năm 2003 (nay là Điều 37 BLTTHS năm 2015). Ngoài ra, cần bổ sung vào Thông tư sửa đổi những quy định hướng dẫn Điều 38 BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trình tự, thủ tục, điều kiện cấp giấy chứng nhận đối với cán bộ điều tra.
          - Sửa đổi TTLT số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 01 tháng 6 năm 2006  của Bộ công an - Viện KSND tối cao- TAND tối cao hướng dẫn về thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội.
          - Sửa đổi TTLT số 01/2010/TTLT- VKSNDTC- BCA-TANDTC ngày 27 tháng 8 năm 2010 của Viện KSND Tối cao - Bộ công an- TAND tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung để đảm bảo phù hợp, thống nhất với quy định của BLTTHS năm 2015.
          - Sửa đổi, bổ sung TTLT số 01/2011/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 7 năm 2011 của Viện KSND tối cao - TAND tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp- Bộ lao động thương binh và xã hội hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.
          - Sửa đổi, bổ sung TTLT số 06/2013/TLTT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02 tháng 8 năm 2013 của Bộ công an - Bộ quốc phòng - Bộ tài chính - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn - Viện KSND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS về tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
          - Ngành kiểm sát nhân dân cần sửa đổi, bổ sung các Quy chế liên quan đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự như: Quy chế kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra việc tiến hành giám định; Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố, điều tra và truy tố vụ án hình sự.
          - Ngoài ra, Bộ công an cần chủ trì, phối hợp với Bộ quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao cần khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố. Đồng thời, các ngành trung ương cần xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

2.3. Giải pháp về tổ chức

2.3.1. Kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của tỉnh Gia Lai
Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, tăng cường cán bộ có năng lực cho các đơn vị làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ là một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát có thể làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, với nhận thức coi hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra là hoạt động có ý nghĩa then chốt, mang tính chất quyết định đối với chất lượng, hiệu quả các hoạt động tố tụng hình sự nói chung của Viện kiểm sát, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra nói riêng, cần thực hiện một số công việc sau:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai cần chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân các huyện rà soát, kiện toàn tổ chức và bộ máy làm việc của các đơn vị theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để đảm bảo đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng theo đúng tinh thần Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát, phải bố trí Kiểm sát viên có đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Các đơn vị phải thường xuyên báo cáo tình hình của đơn vị khi thực hiện tăng thẩm quyền, những khó khăn, vướng mắc nếu có và đề xuất lên cấp trên để sớm có những biện pháp giải quyết kịp thời. 
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai cần rà soát xác định rõ nhu cầu về biên chế và cơ cấu Kiểm sát viên của từng Viện kiểm sát cấp huyện, từng đơn vị nghiệp vụ Viện kiểm sát tỉnh. Nhu cầu về biên chế phải được xác định trên cơ sở khối lượng công việc (số lượng án thụ lý, giải quyết hàng năm) và các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của từng đơn vị, đồng thời ưu tiên các đơn vị trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, các đơn vị cấp huyện có nhiều án.Từng đơn vị phải xác định rõ yêu cầu và mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng; thường xuyên rà soát, đánh giá, phân loại cán bộ, Kiểm sát viên để sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc nhằm phát huy hết năng lực, sở trường của từng cán bộ, Kiểm sát viên. Trên cơ sở đó, báo cáo, đề xuất với Viện kiểm sát nhân dân Tối cao xin bổ sung biên chế cho tỉnh và phân bổ biên chế cho các đơn vị.
Công tác quy hoạch cán bộ phải được làm thường xuyên và liên tục nhằm tạo nguồn cán bộ cho việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như về lâu dài, đảm bảo tính liên tục, kế thừa, khắc phục tình trạng thiếu hụt, chắp vá. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, Kiểm sát viên và các chức vụ quản lý phải đảm bảo đúng trình tự thủ tục, đúng tiêu chuẩn  theo các quy định của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao cho từng chức danh, đảm bảo tính dân chủ, công khai. Việc tuyển dụng cán bộ vào ngành theo hướng chú trọng cả về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống và năng lực chuyên môn nghiệp vụ; có chính sách khuyến khích, ưu tiên những sinh viên được đào tạo cơ bản, có học lực khá, giỏi trở lên vào ngành. 

2.3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, mỗi cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị và nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm là đòi hỏi không phải của riêng quá trình cải cách tư pháp, mà là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên tục. Để nâng cao chất lượng cán bộ đòi hỏi trước hết người cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên phải tự rèn luyện ý thức chính trị. Bên cạnh đó đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra phải có tính pháp lý và tính nghiệp vụ cao, thì người cán bộ kiểm sát phải nhận thức được tính chính trị trong công tác của mình. Tức là, phải luôn luôn quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, vận dụng vào công tác kiểm sát để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện ý thức chính trị tức là đòi hỏi cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên phải luôn luôn nắm vững các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như các chủ trương, nghị quyết liên quan đến công tác của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó các Kiểm sát viên còn phải được quán triệt đầy đủ những chủ trương của cấp uỷ Đảng về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương để hướng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra phục vụ có hiệu quả hơn. Rèn luyện nâng cao ý thức chính trị sẽ giúp Kiểm sát viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành một cách có tình, có lý, được nhân dân tin tưởng và đồng tình, giúp Kiểm sát viên vận dụng pháp luật được đúng đắn hơn.
Việc rèn luyện ý thức chính trị luôn phải đi đôi với rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Kiểm sát viên làm cho Kiểm sát viên hàng ngày phải tiếp xúc với những mặt trái của xã hội tiếp xúc với đủ loại vi phạm và tội phạm. Đòi hỏi Kiểm sát viên thường xuyên trao dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị. Khi Kiểm sát viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức sẽ biết cách khắc phục những khó khăn chủ quan và khách quan trước mắt để hoàn thành nhiệm vụ được giao mà không thụ động, không ỷ lại cấp trên. Trong điều kiện đất nước ta đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc rèn luyện ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho Kiểm sát viên càng đặt ra cấp bách. Thời gian gần đây đã có những vụ việc cho thấy càng phải tiếp tục chú trọng công tác rèn luyện ý thức chính trị và đạo đức cho cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên. Vì vậy, hai cấp Viện kiểm sát tỉnh cần tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, kịp thời phát hiện những cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên có biểu hiện tiêu cực, vi phạm kỷ luật nghiệp vụ để uốn nắn và xử lý nhằm làm trong sạch bộ máy của ngành. 
Để đảm bảo cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng đạt chất lượng và hiệu quả cao trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, một đòi hỏi khách quan là phải tiếp tục nâng cao trình độ pháp lý và nghiệp vụ cho Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, thì họ phải nắm vững pháp luật. Đồng thời, Kiểm sát viên phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn thông thạo để linh hoạt, chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, Kiểm sát viên không những phải học tập để nâng cao trình độ học vấn của mình theo tiêu chuẩn luật định, mà còn phải trao dồi nhiều kỹ năng nghiệp vụ. Kiểm sát viên phải được thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật mới. Để đáp ứng được yêu cầu nói trên, thì Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phải có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại, thường xuyên tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên, khắc phục tình trạng có Kiểm sát viên sau khi kết thúc đào tạo trình độ cử nhân mà nhiều năm sau không được đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ, tổng kết kinh nghiệm để nhân ra diện rộng, tổ chức nghiên cứu khoa học, xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ, mở rộng các hình thức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thực hành quyền công tố. Các tiêu chuẩn về đào tạo, bồi dưỡng phải trở thành tiêu chuẩn không những của việc bổ nhiệm Kiểm sát viên mà còn là tiêu chuẩn của việc bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm chức vụ quản lý. Trong thời gian tới, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành cần chú ý các vấn đề sau:
- Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên trẻ, kiểm sát viên chủ chốt.  Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên phải được làm một cách khách quan, toàn diện cả về mặt chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực thực tiễn. Khuyến khích việc học tập, nghiên cứu, tự học tập, tự nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Trong thời gian tới cần có chính sách khuyến khích để các đồng chí cán bộ trẻ theo học nâng cao sau đại học như Thạc sĩ, Tiến sĩ và chú ý phát hiện những cán bộ năng lực triển vọng đưa đi học tập cử nhân chính trị để đào tạo họ trưởng thành những chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực nghiệp vụ như chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
- Bồi dưỡng và giáo dục để mỗi cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên nhận thức sâu sắc và thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát. Từ đó, giúp cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên xác định rõ vị trí, vai trò của ngành trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp khác và trong bộ máy nhà nước, giúp ngành Kiểm sát và mỗi kiểm sát viên phát huy được tính độc lập của mình, chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định trong hoạt động thực hành quyên công tố và kiểm sát điều tra đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. 
- Hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, của ngành Kiểm sát nói riêng chính là hoạt động đảm bảo các quy định pháp luật. Để áp dụng đúng đắn pháp luật, trước hết mỗi cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên phải có kiến thức pháp lý sâu rộng, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Vì thế, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao cần tăng cường tập huấn các văn bản pháp luật mới, đồng thời tổng kết thực tiễn rút kinh nghiệm trong phạm vi cả nước về áp dụng pháp luật, để phổ biến những cách làm hay, áp dụng pháp luật chính xác để nhân diện rộng, xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ, mở rộng các hình thức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thực hành quyền công tố…

2.3.3. Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức đối với công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Thực tiễn công tác kiểm sát của ngành đã cho thấy quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong mỗi cấp, giữa các cấp kiểm sát và giữa Viện kiểm sát quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong mỗi cấp và giữa Viện kiểm sát với các cơ quan tổ chức, đơn vị không chỉ là giải pháp để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, mà đã được coi là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân. Trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra, việc xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các đơn vị ở mỗi cấp kiểm sát, giữa các cấp kiểm sát cũng như giữa Viện kiểm sát với các cơ quan đơn vị ngoài ngành có một ý nghĩa to lớn, giúp cho việc khắc phục tình trạng “Việc ai người ấy làm”, hoặc tình trạng “quyền anh, quyền tôi”. Xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trước hết, phải xây dựng được mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị công tác ở mỗi cấp kiểm sát. Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị nêu rõ: “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Điều đó có ý nghĩa là để được chất lượng, hiệu quả cao trong hoạt động thực hành quyền công tố, đòi hỏi phải có phối hợp chặt chẽ, toàn diện giữa các đơn vị nghiệp vụ trong Viện kiểm sát. Ví dụ, bộ phận kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù phải thông báo kịp thời cho bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra biết những trường hợp sắp hết hoặc đã hết hạn tạm giữ, tạm giam, hoặc khi có phạm nhân trốn trại để có biện pháp xử lý kịp thời, phù hợp; ngược lại bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải thông báo kịp thời những trường hợp huỷ bỏ việc tạm giữ, tạm giam cho bộ phận kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù biết để thực hiện các hoạt động kiểm sát. Để bảo đảm thực hiện tốt quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong mỗi cấp kiểm sát, đòi hỏi vai trò chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của Viện trưởng viện kiểm sát các cấp, đồng thời bảo đảm sự phối hợp giữa các Phó viện trưởng phụ trách các khâu nghiệp vụ với nhau, trên cơ sở chỉ đạo chung của Viện trưởng.
Trong quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp với nhau cũng đòi hỏi có sự phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ và trong hoạt động chỉ đạo, điều hành. Trên cơ sở quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp kiểm sát, giữa các cấp có sự phối hợp trên dưới và ngược lại. Ví dụ như trong công tác kháng nghị phúc thẩm, để bảo đảm cho Viện kiểm sát cấp trên thực hiện được quyền kháng nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật, các Viện kiểm sát cấp dưới phải sao gửi bản cáo trạng và sao gửi ngay bản án của Toà án gửi cho Viện kiểm sát cấp trên, gửi ngay báo cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm cùng những quan điểm của Viện kiểm sát cấp mình để Viện kiểm sát cấp trên nghiên cứu; trong trường hợp nhận thấy bản án hoặc quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật nhưng Viện kiểm sát cấp dưới đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm thì phải báo cáo đề xuất ngay với Viện kiểm sát cấp trên để kháng nghị phúc thẩm. Đối với các Viện kiểm sát cấp trên, sau khi có kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, cần thông báo cho các Viện kiểm sát cấp.  
Cần tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới. Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành luôn có vai trò quan trọng đối với bất kỳ một cơ quan, đơn vị nào và có ý nghĩa quyết định. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành Kiểm sát, cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:
 - Quán triệt sâu sắc nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành theo đúng quy định tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 36 Bộ luật tố tụng năm 2003 đến từng từng cán bộ, kiểm sát viên. Tăng cường vai trò của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, trước hết là nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Viện trưởng trong việc trực tiếp thực hiện các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Thực tế hiện nay, nhiều Viện trưởng Viện kiểm sát quá bận vào công việc hội họp, các công việc hành chính, vì vậy không tập trung vào các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà giao công việc đó cho cấp phó và các kiểm sát viên dưới quyền. Nhiều quyết định tố tụng được Viện trưởng ban hành chỉ dựa trên cơ sở nghe báo cáo của cấp dưới, do vậy có thể để xảy ra oan sai. Với vai trò là người lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm chung về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát cấp mình và cấp dưới, đòi hỏi trước hết Viện trưởng Viện kiểm sát phải tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, bảo đảm các quyết định pháp lý được ban hành phải chính xác, hợp pháp và có căn cứ.    
- Tăng cường và đổi mới hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện trưởng đối với hoạt động của đơn vị, nhất là đối với các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, trước hết là các hoạt động quan trọng như: quản lý và tiếp nhận, xử lý về tin báo tội phạm; quản lý vấn đề khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, quản lý vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, quản lý các trường hợp án đình chỉ, án tạm đình chỉ…. Để thực hiện tốt hoạt động này, đòi hỏi Viện trưởng phải có sự phân công, phân nhiệm cho từng bộ phận công tác và cho từng cán bộ,  kiểm sát viên một cách hợp lý nhằm phát huy hết năng lực sở trường của họ, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận công tác. Đồng thời, phải nắm được đầy đủ, sâu sát và toàn diện từng vấn đề, từng nội dung công việc, nhất là những vấn đề quan trọng, phức tạp để chỉ đạo kịp thời.
- Nâng cao vai trò hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện trưởng Viênk kiểm sát cấp tỉnh đối với Viện kiểm sát cấp huyện trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra: Hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành được thực hiện thông qua việc thực hiện xây dựng, triển khai và kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, chương trình công tác hằng năm; thông qua việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong ngành…Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này, Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh cần có biện pháp để các Viện kiểm sát cấp huyện thực hiện tốt chế độ báo cáo, thống kê, chế độ thỉnh thị nghiệp vụ, đồng thời phải tạo cơ chế chặt chẽ trong việc xử lý các thông tin báo cáo, trả lời thỉnh thị. Viện kiểm sát tỉnh phải tăng cường sự chỉ đạo đồng thời với việc tăng cường biện pháp kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát cấp huyện, như quy định chế độ giao ban công tác giữa Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh với các phòng nghiệp vụ của tỉnh với Viên kiểm sát huyện, lập các đoàn kiểm tra công tác… Phải khắc phục ngay tình trạng cấp dưới không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, kịp thời. Vì như thế, Viện kiểm sát cấp trên sẽ không nắm được công việc để chỉ đạo xử lý. Công tác kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ phải được làm thường xuyên và liên tục. Thông qua công tác kiểm tra để nắm chất lượng hoạt động thực tế trong hoạt động nghiệp vụ của từng đơn vị, kịp thời phát hiện những sai phạm, thiếu sót để uốn nắn, rút kinh nghiệm. Đồng thời khắc phục tình trạng, một số đơn vị do chạy theo thành tích mà báo cáo không đầy đủ kết quả công tác, đặc biệt là những thiếu sót, tồn tại của đơn vị mình.
Bên cạnh đó, cũng cần đồng thời nâng cao và xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên. Vấn đề này phải được giải quyết hài hòa với việc nâng cao trách nhiệm của Viện trưởng, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng làm cho quá coi trọng quyền hạn của Kiểm sát viên mà bỏ quên trách nhiệm của Viện trưởng hoặc quá coi trọng trách nhiệm của Viện trưởng mà hạ thấp vai trò của kiểm sát viên làm cho kiểm sát viên không phát huy được hết vai trò sáng tạo, dễ thụ động, ỷ lại cho Viện trưởng.
Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật là nhiệm vụ không chỉ riêng của các cơ quan bảo vệ pháp luật mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, nhưng trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, trong đó có Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật sẽ không đạt hiệu quả cao nếu không có sự phối kết hợp với các cơ quan tư pháp khác đặc biệt là Cơ quan điều tra, Tòa án, bên cạnh đó còn có các ban ngành khác của tỉnh, huyện. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp cho thấy, nơi nào xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật nhất là các cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng thì nơi đó có điều kiện để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa ngành kiểm sát với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm là yêu cầu khách quan, bảo đảm nâng cao chất  lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Việc tăng cường mối quan hệ phối hợp liên ngành trước hết phải dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo luật định, nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Muốn vậy, liên ngành Viện kiểm sát, Công an và Toà án ở mỗi cấp phải thống nhất xây dựng được quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, đơn vị trong hoạt động tố tụng giải quyết hình sự, đặc biệt là đối với các vụ án lớn, án trọng điểm, án nghiêm trọng, phức tạp, những vụ án cần điều tra, truy tố, xét xử nhanh hoặc xét xử lưu động phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh, những vụ án cần tiến hành theo thủ tục rút gọn ... trước hết là cấp tỉnh để làm căn cứ cơ sở cho cấp huyện thực hiện. Hoạt động phối hợp liên ngành phải được thực hiện ngay từ khi có tin báo, tố giác về tội phạm đến khi vụ việc được giải quyết triệt để theo quy định của pháp luật tránh tình trạng để lọt người, lọt tội hoặc làm oan người vô tội. Đồng thời cũng cần tiếp tục nghiên cứu mô hình và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tiến trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, theo đó cơ quan Tòa án tổ chức theo thẩm quyền không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.   
 Bên cạnh hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trực tiếp làm công tác bảo vệ pháp luật thì cũng cần thiết phối hợp với các cơ quan ban ngành khác ở địa phương, nhất là với Ủy ban mặt trân tổ quốc để tuyên truyền phổ biến pháp luật; đấu tranh phòng, chống tội phạm; kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp… có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi, tranh thủ được sự ủng hộ của các ban ngành trong tỉnh để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành, vừa đảm bảo phục vụ tình hình chính trị địa phương.  

2.4. Hoàn thiện cơ chế giám sát đối với công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Gia Lai

Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các văn bản pháp luật hiện hành thì Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Hội đồng nhân dân giám sát các cơ quan tư pháp thông qua các hoạt động: xem xét báo cáo công tác của Viện kiểm nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp; xem xét việc trả lời chất vấn của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp tại các kỳ họp. Hội đồng nhân dân có thể yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết. Trong hoạt động giám sát, các ban của Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, đối với các cơ quan tư pháp nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những kết quả tốt góp phần cho hoạt động của các cơ quan này có chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động giám sát như vậy vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước đặt ra. Trên thực tế những năm qua, hoạt động của các cơ quan dân cử còn mang tính hình thức. Với định kỳ một năm họp hai lần, thời gian mỗi kỳ họp ít ngày, nên không thể giải quyết được hết vấn đề phát sinh, bởi bên cạnh chức năng giám sát, Hội đồng nhân dân còn thực hiện các chức năng quan trọng khác. Vì thế thời lượng giành cho chất vấn và trả lời chất vấn nói chung, chất vấn của ngành Kiểm sát nói riêng còn ít; mặt khác chất lượng đại biểu dân cử nhìn chung còn hạn chế và không đồng đều. Đa số những đại biểu có kiến thức, có năng lực đều là những đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, phần lớn còn lại là những đại biểu theo cơ cấu thành phần xã hội, cơ cấu vùng miền, thành phần dân tộc. 
Đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân là một đòi hỏi khách quan, mà trước hết phải đổi mới chất lượng của Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng tăng cường đại biểu hoạt động chuyên trách; nâng cao chất lượng đại biểu, theo đó những đại biểu theo cơ cấu thành phần xã hội, thành phần dân tộc cũng phải đạt tiêu chuẩn về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định mới được ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân.
Phát huy vai trò giám sát của cá nhân đại biểu Hội đông nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác. Phân công những đại biểu có chuyên môn về lĩnh vực pháp luật trực tiếp phụ trách việc giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp. 
Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp các cấp trong việc xử lý, thực hiện các kết luận qua giám sát, đảm bảo các nội dung đã kết luận đều được thực hiện đầy đủ kịp thời.
 Mặt khác phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp khác. Đặc biệt là vai trò của Mặt trận tổ quốc và các thành viên của Mặt trận. Vì vậy, Viện kiểm sát phải chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc để ban hành quy chế phối hợp công tác giữa ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc và Viện kiểm sát nhân dân, từ đó mở rộng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến nâng cao nhận thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, để họ tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hình sự của ngành Kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác.
 Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiến hành mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính và tư pháp, vấn đề đặt ra cả về lý luận và thực tiễn hiện nay là cần phải nghiên cứu, xem xét để điều chỉnh lại hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát cho phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đây có thể xem như là cơ sở thực tiễn để nghiên cứu, xem xét khi lựa chọn phương án đảm bảo sự giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát cấp huyện theo yêu cầu cải cách trong thời gian tới.

2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên 

Trong các nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu thì nhiệm vụ: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hoá các cơ quan tư pháp. Phấn đấu năm 2015 xây dựng đủ trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp từ trung ương đến cấp huyện; xây dựng, cải tạo, sửa chữa các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Có chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp”... Như vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác tư pháp nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra nói riêng đã trở thành yêu cầu khách quan. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát giữ vai trò rất lớn, quyết định trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Trước các yêu cầu của cải cách tư pháp, vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát tăng lên rất nhiều. Đơn cử, theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, để bảo đảm tốt các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát phải tham gia đầy đủ các cuộc khám nghiệm hiện trường, tăng cường phối hợp với Toà án tổ chức các phiên toà xét xử lưu động, tăng cường kiểm sát trực tiếp tại các nơi tạm giữ, tạm giam, trại giam. Để thực hiện tốt các hoạt động này, việc tăng cường trang bị phương tiện giao thông, liên lạc cho Viện kiểm sát các cấp ở địa phương là cần thiết. Chế độ báo cáo được đặt ra khẩn cấp hơn, nhiều hơn,... Trước tình hình như vậy, việc tăng cường đầu tư phương tiện đi lại, trang thiết bị khoa học, công nghệ cao là hết sức cần thiết, bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra đạt chất lượng hiệu quả cao hơn.
Trên thực tế cho đến nay, trụ sở làm việc của Viện kiểm sát các huyện và trụ sở làm việc của Viện kiểm sát tỉnh Gia Lai đã được đầu tư xây dựng cơ bản, phương tiện làm việc đã được trang bị máy photo, máy tính, xe máy và chế độ chính sách đối với cán bộ Viện kiểm sát đã ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu  tranh phòng, chống tội phạm và trong mối tương quan về mức sống với các ngành khác, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc của ngành kiểm sát vẫn còn thiếu thốn, nghèo nàn và lạc hậu, đời sống của cán bộ, kiểm sát viên còn gặp nhiều khó khăn. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát tăng lên rất nhiều. 
Để thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố nói chung, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng đạt hiệu quả mong muốn, việc tăng cường trang thiết bị, phương tiện giao thông, liên lạc, trang thiết bị khoa học, công nghệ cho Viện kiểm sát các cấp là hết sức cần thiết, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao trong thời gian tới sớm có kế hoạch đầu tư theo hướng sau:
- Đầu tư trang thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin có chất lượng cao phục vụ công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, chuẩn hoá tin học trong cơ quan Viện kiểm sát các cấp.
- Đầu tư in ấn, cấp phát các văn bản pháp luật, tài liệu, sách báo có liên quan đến lĩnh vực pháp luật cho cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành nghiên cứu học tập và áp dụng vào giải quyết các vụ việc cụ thể. Đồng thời, trang bị phương tiện đi lại và dụng cụ bảo hộ phục vụ các hoạt động nghiệp vụ có tính độc hại cao như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khai quật tử thi, thực nghiệm điều tra ...
- Có chế độ lương, phụ cấp và các đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ, kiểm sát viên để họ có điều kiện ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, không bị giao động, sa ngã trước mọi tác động, cám dỗ, mua chuộc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao./.
 
Tác giả: Thạc sỹ Phạm Bình An - Phó Viện trưởng VKSND thị xã An Khê. 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập30
  • Máy chủ tìm kiếm5
  • Khách viếng thăm25
  • Hôm nay4,795
  • Tháng hiện tại114,176
  • Tổng lượt truy cập16,643,098
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây