Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án Hành chính

Thứ tư - 29/04/2020 04:27 3.527 0
Quyền yêu cầu là một trong những quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính được quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Bài viết này tập trung phân tích nội dung, thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính.

Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính được quy định tại Điều 4, Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và được cụ thể hóa trong Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015. Ngoài ra, quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính còn được quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao.

Có thể định nghĩa, Quyền yêu cầu trong giải quyết vụ án hành chính là một quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, được thực hiện trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện Tòa án, người tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chưa thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu các chủ thể phải nghiêm chỉnh thực hiện theo quy định của pháp luật, các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện đúng theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhằm đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hành chính được nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.

1. Quy định về quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

1.1. Đối tượng của quyền yêu cầu

Trong tố tụng hành chính, đối tượng của quyền yêu cầu là các hành vi tố tụng của Tòa án, của người tiến hành tố tụng trong Tòa án; hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính. Các hành vi tố tụng của Tòa án, của người tiến hành tố tụng trong Tòa án; hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính là đối tượng của quyền yêu cầu trong tố tụng hành chính có thể là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Các hành vi đó phải mang tính hợp pháp và tính hợp lý. Viện kiểm sát nhân dân phải xem xét cả hai yếu tố mới đảm bảo được đính đúng đắn và chính xác của các hành vi nêu trên. Nếu phát hiện có vi phạm một trong hai yếu tố nêu trên, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu các chủ thể thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về hình thức thực hiện quyền yêu cầu, song với quy định về đối tượng của quyền yêu cầu là hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp, hình thức thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát cần đa dạng, linh hoạt để vừa đảm bảo tính pháp lý vừa phù hợp với mỗi hành vi cụ thể, vì vậy, hình thức yêu cầu có thể thực hiện bằng văn bản hoặc lời nói, ví dụ: sau phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ án hành chính, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu được xem biên bản phiên tòa, phiên họp và yêu cầu sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 166 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, quyền yêu cầu trong trường hợp này có thể thực hiện bằng lời nói.

Về nguyên tắc, thẩm quyền thực hiện yêu cầu thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên (KSV). Song, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể những trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu mà chỉ quy định chung Viện trưởng có quyền yêu cầu theo quy định của điểm đ khoản 1 Điều 42 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, các điều luật khác chỉ quy định quyền yêu cầu thuộc về Viện kiểm sát; đối với Kiểm sát viên, ngoài thẩm quyền thực hiện quyền yêu cầu theo Khoản 6 Điều 43 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có nhiều điều luật quy định Kiểm sát viên có quyền yêu cầu.
Do vậy, Khoản 1 Điều 20 Thông tư liên tịch số 03/2016 quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định thực hiện quyền yêu cầu quy định tại Luật tố tụng hành chính và Thông tư liên tịch này, nghĩa là Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền nhân danh Viện kiểm sát và Kiểm sát viên thực hiện mọi quyền yêu cầu mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; nhưng Kiểm sát viên chỉ được thực hiện những quyền yêu cầu mà luật trực tiếp quy định cho Kiểm sát viên và các trường hợp khác theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Thông tư liên tịch số 03/2016 và do Viện trưởng ủy quyền.

1.2.Căn cứ và phạm vi thực hiện quyền yêu cầu

Trên cơ sở quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu các chủ thể đó thực hiện đúng những hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Trong tố tụng hành chính, khi Tòa án, người tiến hành tố tụng của Tòa án và chủ thể tham gia tố tụng thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chưa thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu các chủ thể phải nghiêm chỉnh thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính được thực hiện quyền yêu cầu trong những trường hợp sau:

a. Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Kiểm sát viên xét thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án có căn cứ và đúng pháp luật thì Kiểm sát viên gửi văn bản yêu cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Xác định thực hiện quyền này là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động kiểm sát, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án hành chính được chính xác, kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Khi thực hiện quyền yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phải đảm bảo 2 yếu tố: cần và đủ (cần thiết cho việc giải quyết vụ án; đủ để đánh giá chứng cứ). Ngoài ra, còn phải đảm bảo tính khả thi (khả năng thực hiện). Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ nội dung thu thập chứng cứ cũng như thời hạn Tòa án thu thập và gửi các bản sao tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát.
 
b. Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện kiểm sát. Việc yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án hành chính trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát là nhằm mục đích:

Một là, tham gia các phiên tòa, phiên họp: Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu để tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 147, tham gia phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều 231, tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn tại khoản 3 Điều 247, tham gia phiên tòa phúc thẩm theo thủ tục rút gọn tại khoản 3 Điều 252; Trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi  ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp để tham gia phiên họp giám đốc thẩm tại khoản 2 Điều 264, và cuối cùng là để tham gia phiên họp tái thẩm theo quy định tại Điều 286 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Hai là, xem xét, quyết định việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;

Ba là, xem xét việc kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo thủ tục đặc biệt: Sau khi nhận được yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội hoặc sau khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo quy định tại khoản 1 Điều 287 của Luật Tố tụng hành chính 2015, Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao bản sao văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị.

c. Yêu cầu tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy định tại Khoản 6 Điều 43 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Một là, yêu cầu Tòa án sao chụp bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu chứng cứ liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định của Điều 21 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; Yêu cầu Tòa án cùng cấp cung cấp hồ sơ, tài liệu để kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án: Ngay sau khi nhận được Thông báo trả lại đơn khởi kiện, hoặc thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại về trả lại đơn khởi kiện những trường hợp phức tạp, Viện kiểm sát ban hành công văn đề nghị Tòa án cho sao chụp hồ sơ để nghiên cứu tính có căn cứ của việc trả đơn khởi kiện. Nếu thấy không có căn cứ, thì Viện kiểm sát có văn bản kiến nghị yêu cầu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

Hai là, yêu cầu sửa đổi, bổ sung biên bản phiên tòa, phiên họp. Sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên có quyền kiểm tra biên bản phiên tòa, phiên họp. Kiểm sát viên có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản. Yêu cầu của Kiểm sát viên được thực hiện ngay và Kiểm sát viên ký xác nhận vào những nội dung sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Khoản 4 Điều 166 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Ba là, yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án (Điểm c Khoản 1 Điều 182 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);

Bốn là, yêu cầu Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại phiên toà (Điều 183, Luật Tố tụng hành chính năm 2015);

Năm là, yêu cầu liên quan đến thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, trong đó: 
+ Yêu cầu người giám định giải thích rõ về những vấn đề còn chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc mâu thuẫn với tình tiết khác của vụ án (Điều 185 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);
 + Yêu cầu hỏi về các vấn đề cần thiết khi các tình tiết của vụ án chưa được xem xét đầy đủ (Điều 186 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);

d. Thực hiện các quyền yêu cầu khác, bao gồm:

Một là, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Khoản 4 Điều 93 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 để thực hiện thẩm quyền kháng nghị;

Hai là, yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 261 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Đồng thời, khoản 2 Điều 261, Khoản 3 Điều 283 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

Ba là, yêu cầu người gửi đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát theo khoản 2 Điều 258, Điều 286 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Bốn là, yêu cầu Tòa án, cơ quan khác, tổ chức, cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu về việc giải quyết khiếu nại tố cáo theo quy định tại Điều 343 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Năm là, yêu cầu yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật (Khoản 8 Điều 43 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);

Sáu là, yêu cầu Ủy ban nhân dân xã nơi người tham gia tố tụng cư trú, cơ quan nơi người tham gia tố tụng làm việc thực hiện việc cấp, tống đạt thông báo văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

2. Thực trạng thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

2.1. Những kết quả đạt được

Theo Báo cáo sơ kết 03 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015 của Viện KSND tối cao, qua 03 năm thi hành Luật TTHC năm 2015 (thời điểm từ ngày 01/7/2016 đến ngày 01/3/2019) cho thấy, Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu quyền yêu cầu bằng hình thức ban hành văn bản (1.117 yêu cầu); ngoài ra có một số địa phương tùy trường hợp KSV trao đổi trực tiếp với Thẩm phán, có trường hợp yêu cầu trực tiếp tại phiên tòa, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được kịp thời, đúng pháp luật. Trên thực tế, nhiều Tòa án thực hiện tốt yêu cầu của Viện kiểm sát, nhưng cũng còn một số Tòa án thực hiện chưa nghiêm túc hoặc không thực hiện.
Nhìn chung, yêu cầu giải quyết các tranh chấp hành chính tại Tòa án ngày càng nhiều, do đó, số vụ án hành chính VKSND thực hiện kiểm sát cũng tăng lên đáng kể, trong đó việc thực hiện quyền yêu cầu của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính đã đạt được những kết quả nhất định, khẳng định vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng hành chính, đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật.

2.2. Một số khó khăn vướng mắc

Thứ nhất, về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ
Theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật tố tụng hành chính 2015; Điều 22 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính.
Tuy nhiên, Tại khoản 2 Điều 22 Thông tư liên tịch số 03/2016 quy định “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa theo quyết định đưa vụ án ra xét xử được quy định tại Điều 149 hoặc khoản 3 Điều 221 Luật TTHC, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
Luật tố tụng hành chính quy định quyền yêu cầu của Viện kiểm sát mà không có điều, khoản quy định trách nhiệm của Tòa án phải thực hiện yêu cầu. Do đó, việc thực hiện quyền yêu cầu còn khó khăn, chưa đạt kết quả trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, sau khi nghiên cứu hồ sơ án hành chính, Kiểm sát viên thấy cần thiết phải giám định chữ ký, chữ viết của đương sự, cần xác minh về tình trạng cư trú của người liên quan, thu thập thêm lời khai của những người làm chứng để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính,… thì có thể ban hành văn bản yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Sau khi nhận được văn bản yêu cầu của Kiểm sát viên, nếu Tòa án cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc với lý do là không thể thực hiện được yêu cầu của Viện kiểm sát thì đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Thẩm phán chỉ cần thông báo cho Kiểm sát viên về việc không thể thực hiện theo yêu cầu của văn bản trên.
Tại phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, trường hợp Kiểm sát viên thấy cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ nhưng Hội đồng xét xử xem xét quyết định không chấp nhận yêu cầu thu thập này thì dù không nhất trí, Kiểm sát viên vẫn phải tiếp tục tham gia phiên tòa, phiên họp.
 
Như vậy không phải trường hợp nào Viện kiểm sát có yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập thêm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án đều bắt buộc phải thực hiện. Việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên là tùy thuộc vào việc nhận định, đánh giá của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, chưa kể quy định trên sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc cung cấp chứng cứ - chứng minh cũng như nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính.

Thứ hai, về quyền yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ vụ án: Theo quy định tại Điều 147 Luật tố tụng hành chính năm 2015 “Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án”. Như vậy sau khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án mới gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ xong phát hiện cần phải xác minh thu thập thêm chứng cứ hoặc có một số hoạt động tố tụng chưa đúng thì sẽ ra văn bản yêu cầu và gửi kèm theo hồ sơ trả cho Tòa án, thời điểm đó phần lớn các vụ án đã gần đến ngày xét xử nên Tòa án không có thời gian thực hiện các nội dung Viện kiểm sát yêu cầu, dẫn đến một số vi phạm trong hoạt động tố tụng không được khắc phục triệt để hoặc phải tạm ngừng phiên tòa để bổ sung tài liệu chứng cứ hoặc khắc phục vi phạm tố tụng.

Thứ ba, tại phiên tòa phát sinh tình tiết mới, Kiểm sát viên thấy nội dung tình tiết mới chưa được làm rõ, chưa đủ cơ sở để phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, cần thiết phải tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập thêm chứng cứ nên đã yêu cầu Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa theo điểm c khoản 1 Điều187 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Tuy nhiên Hội đồng xét xử hội ý và cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập chứng cứ và quyết định vẫn xét xử vụ án. Trong trường hợp này Kiểm sát viên phải phát biểu như thế nào? Có thể không phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án được không?
Thứ tư, đối với một số cá nhân việc chấp hành theo giấy triệu tập của Viện kiểm sát chưa được nghiêm. Vì trong quá trình giải quyết vụ án xét thấy cần thiết để làm rõ các nội dung của vụ án và có cơ sở đánh giá toàn diện, nên Viện kiểm sát nhân dân đã có giấy mời các đương sự đến cơ quan Viện kiểm sát để làm việc, nhưng một số cá nhân không chấp hành nhưng cũng không có chế tài đối với đương sự. Đây cũng là vấn đề tồn tại khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án.

3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

- Về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ
Cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật tố tụng hành chính 2015; Điều 22 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 theo hướng bổ sung thêm trách nhiệm của Tòa án phải thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát, quy định thêm chế tài việc Tòa án trả lời phiến diện, không có văn bản thông báo và nêu rõ lý do đối với “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa theo quyết định đưa vụ án ra xét xử được quy định tại Điều 149 hoặc khoản 3 Điều 221 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
Việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên là tùy thuộc vào việc nhận định, đánh giá của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử bởi Tòa án cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc với lý do là không thể thực hiện được yêu cầu của Viện kiểm sát, quy định trên sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc cung cấp chứng cứ - chứng minh cũng như nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính nên cần quy định rõ các trường hợp không thể thực hiện được quyền yêu cầu thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên đối với Tòa án để tránh việc áp dụng tùy tiện, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

- Về quyền yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ vụ án
Cần quy định trách nhiệm của Tòa án đối với yêu cầu xác minh thu thập thêm chứng cứ hoặc yêu cầu khắc phục một số hoạt động tố tụng chưa đúng của Viện kiểm sát đối với trường hợp Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án và trả lại cho Tòa án theo quy định tại Điều 147 Luật tố tụng hành chính năm 2015 “Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án”.

3.2. Các giải pháp tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, đầy đủ theo yêu cầu công tác và phù hợp với năng lực, sở trường của từng cán bộ, Kiểm sát viên. Việc lãnh đạo, chỉ đạo phải sâu sát, trực tiếp (nghe báo cáo, trực tiếp nghiên cứu hồ sơ) để nắm được tình hình, diễn biến cũng những khó khăn, vướng mắc trong công tác để kịp thời chỉ đạo hoặc có biện pháp hỗ trợ. Việc báo cáo, đề xuất của Kiểm sát viên phải làm thành văn bản ghi rõ nội dung, quan điểm đề xuất; trường hợp Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân quyết định khác với ý kiến đề xuất thì Kiểm sát viên phải thực hiện theo chỉ đạo đồng thời bảo lưu ý kiến của mình. Bên cạnh việc xây dựng, triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị, Kế hoạch chương trình công tác hàng năm, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong toàn Ngành, Lãnh đạo Viện cần tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường thông báo rút kinh nghiệm trong công tác để phát hiện những tồn tại, thiếu sót, sai phạm trong công tác để kịp thời khắc phục, sửa chữa;
Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp cần duy trì việc tổ chức giao ban định kỳ hoặc đột xuất nhằm phân tích đánh giá những kết quả đạt được, giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong công tác và đề ra biện pháp chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém làm hạn chế đến chất lượng công tác để từ đó tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành để nâng cao hiệu quả công tác.

Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp có thẩm quyền thực hiện nghiêm Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao (TTLT số 03/2016), quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính, trong đó có hướng dẫn thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, Tòa án trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính; Quyết định số 282/QĐ-VKSTC ngày 01/08/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế công tác kiểm sát vụ án hành chính và Quyết định số 279/QĐ-VKSTC ngày 01/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về quy chế thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân.
 

3.3. Giải pháp về đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên


Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu sót, hạn chế việc thực hiện quyền yêu cầu trong tố tụng hành chính xuất phát từ nhận thức và năng lực chuyên môn của các Kiểm sát viên. Làm thay đổi nhận thức của Kiểm sát viên, nâng cao trình độ và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ là giải pháp quan trọng và cần thiết, phải được tiến hành thường xuyên và kiên trì thông qua các biện pháp cụ thể như:
- Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật; rèn luyện đạo đức và lối sống đúng đắn, trong sạch cho cán bộ, Kiểm sát viên, trong Ngành thông qua việc quán triệt và thực hiện tốt các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị;
- Bố trí đủ cán bộ, Kiểm sát viên có tinh thần trách nhiệm, có trình độ năng lực chuyên môn chuyên trách, ổn định làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính.
- Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng công tác, chú trọng nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác như kỹ năng sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ.
 

3.4. Giải pháp về tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Tòa án


Xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Tòa án là rất cần thiết cho công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính trong giai đoạn hiện nay, nó không chỉ giải quyết những khó khăn trong việc chuyển hồ sơ, bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác mà còn đảm bảo cho việc thực hiện các quyền yêu cầu trong tố tụng hành chính. Đồng thời, tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc thực hiện quyền yêu cầu, đặc biệt là thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp đã được quy định tại Chương III – Thông tư liên tịch số 03/2016/VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016. /.
 
 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Sách, luận án, luận văn, báo cáo, bài viết khoa học
  1. Lê Văn Sơn, Đoàn Thị Vĩnh Hà (2016), “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo Luật tố tụng hành chính năm 2015, Tạp chí Kiểm sát, (05).
  2. Lê Việt Sơn (2016), “Những điểm mới của Luật Tố tụng hành chính năm 2015”, Tạp chí kiểm sát, (03).
  3. Lê Thị Phương Thanh (2016), “Hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Kiểm sát viên - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2016, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội.
  4. Nguyễn Thị Thế (2011), “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng hành chính”, Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2011, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
  5. Trần Đình Khánh (2010), “Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động giải quyết vụ án hành chính của Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2010, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
  6. Báo cáo của Vụ 10 – Viện kiểm sát nhân dân tối cáo tại Hội nghị sơ kết 03 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và tập huấn nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự

B. Các văn bản pháp luật
  1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tố chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2014.
  3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật tố tụng hành chính ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC Quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính ban hành ngày 31 tháng 8 năm 2016. 
  5. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Hướng dẫn số 10/HD - VKSTC về việc “hướng dẫn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật năm 2017” ban hành ngày 18 tháng 01 năm 2017.
  6. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 282/QĐ-VKSTC: Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính ban hành ngày 01/08/2017.
  7. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Chỉ thị số 04/CT -VKSTC về “Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật” ban hành ngày 22 tháng 3 năm 2018.

C. Website tham khảo

1.Trần Thị Minh Hiền (2018), “Kinh nghiệm thực hiện quyền yêu cầu trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính”, truy cập ngày 01/6/2018 tại http://kiemsat.vn/kinh-nghiem-thuc-hien-quyen-yeu-cau-trong-kiem-sat-viec-giai-quyet-cac-vu-an-hanh-chinh-49536.html

Tác giả bài viết: Nguyễn Quang Đạt

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập45
  • Hôm nay9,978
  • Tháng hiện tại796,945
  • Tổng lượt truy cập16,491,711
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây