Chào mừng 30/4
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình ở giai đoạn sơ thẩm của Kiểm sát viên

Thứ năm - 14/11/2019 22:10 8.699 0
Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự nói chung và vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng của Kiểm sát viên trong giai đoạn sơ thẩm là một thao tác nghiệp vụ có tính khoa học và tính logic

I. Phạm vi chuyên đề:

Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự là xem xét, tìm hiểu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự để nắm vững những vấn đề cần giải quyết trong vụ án đó. Chủ thể thực hiện nghiên cứu hồ sơ khác nhau thì phương pháp tiếp cận tài liệu có trong hồ sơ và hoạt động nghiên cứu hồ sơ cũng không giống nhau do sự khác nhau về mục đích nghiên cứu. cho nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án giữa Thẩm phán Tòa án và Kiểm sát viên sẽ khác nhau về cách thức, nội dung do mục tiêu nghiên cứu không giống nhau. Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ để giải quyết các yêu cầu mà các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên cơ sở pháp lý. Mục đích Kiểm sát viên/Kiểm tra viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, ngoài mục tiêu đưa ra quan điểm giải quyết vụ án trong việc báo cáo án, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Kiểm sát viên còn phải tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký Tòa án từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Do đó, trong quá trình xem xét thông tin có trong tài liệu của hồ sơ vụ án để “làm rõ nội dung vụ án”, Kiểm sát viên cần xác định 02 vấn đề phải giải quyết khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đó là “việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến hết thời hạn chuẩn bị xét xử” và “quan điểm giải quyết vụ án”. Xuất phát từ vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên sẽ nhận được hồ sơ vụ án để nghiên cứu hồ sơ trong các trường hợp:

- Nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa sơ thẩm (Khoản 2 Điều 21 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 4 Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT- VKSNDTC – TANDTC ngày 31/8/2016 Quy định về việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 19 Quy chế Công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ban hành kèm Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 10 năm 2017)
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm ( Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT- VKSNDTC – TANDTC, Khoản 2 Điều 26 Quy chế Công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ban hành kèm Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 10 năm 2017)
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa phúc thẩm (Điều 292 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 30 Quy chế Công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ban hành kèm Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 10 năm 2017)
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét, quyết định kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (Khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT- VKSNDTC – TANDTC)
- Nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm (Khoản 2 Điều 336 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT- VKSNDTC – TANDTC, Điều 43 Quy chế kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ban hành kèm Quyết định 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017)
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi không có ý định bao quát các lĩnh vực dân sự, kinh doanh thương mại… mà chỉ gợi mở một số kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa sơ thẩm (theo thủ tục thông thường) của Kiểm sát viên mà đối tượng nghiên cứu là “hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình”.

II. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình để tham gia phiên tòa sơ thẩm

1. Tiếp nhận và phân loại hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình
Trên tinh thần Khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Kiểm sát viên nhận hồ sơ vụ án từ Tòa án và nghiên cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình để tham gia phiên tòa sơ thẩm trong các trường hợp:
- Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ làm rõ tình tiết khách quan của vụ án;
- Đối tượng tranh chấp trong vụ án hôn nhân gia đình là quyền sử dụng dất, nhà ở;
- Đương sự trong vụ án là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình của Kiểm sát viên cũng như thời gian Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án là 15 ngày trước ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm (Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015). Trong giới hạn thời gian nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định nêu trên, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là rất lớn, do vậy Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa án thực hiện nghiêm túc việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát viên nghiên cứu. Trong trường hợp này cần nhắc nhỡ hoặc kiên quyết không tham gia phiên tòa nếu việc thời gian nghiên cứu của Kiểm sát viên chưa đủ 15 ngày như luật định.
Trong quá trình giao nhận hồ sơ vụ án thực tế khó tránh khỏi phát sinh rắc rối khi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ bị thất lạc, bút lục không rõ ràng, cho nên khi nhận được hồ sơ, Kiểm sát viên cần kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ căn cứ trên số bút lục được ghi trên tài liệu, nếu có sự không rõ ràng về bút lục hoặc bút lục được ghi số a,b,c… thì nên ghi chú trên hồ sơ hoặc ghi chú rõ trong biên bản giao nhận hồ sơ.

Trong vụ án dân sự nói chung và vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng, Tòa án chủ động điều tra và thu thập các tài liệu cần thiết mà không có sự kiểm sát chặt chẽ từ đầu của Kiểm sát viên cho nên việc kiểm sát giải quyết vụ án của Tòa án chính là việc thông qua các tài liệu thực có trong hồ sơ vụ án do Tòa án lập mà đánh giá quá trình thu thập, điều tra của Thẩm phán. Do đó, việc kiểm tra các tài liệu hiện có trong hồ sơ được đánh bút lục đầy đủ, theo thứ tự là cần thiết để đảm bảo tính trung thực của hồ sơ. Thông qua tài liệu hồ sơ được đánh bút lục và sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm… như quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 sẽ giúp Kiểm sát viên dễ dàng nắm được diễn biến của quá trình giải quyết vụ án. Và đây là hoạt động “nghiên cứu sơ bộ hồ sơ vụ án”, cần phân biệt với hoạt động “nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa sơ thẩm”. Hoạt động nghiên cứu sơ bộ hồ sơ vụ án có mối quan hệ mật thiết với việc phân loại hồ sơ vụ án và hoạt động “trích cứu hồ sơ vụ án” ở giai đoạn sơ thẩm chủ yếu là hồ sơ mới lập nhưng cũng có thể là hồ sơ vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Vì vậy, Kiểm sát viên trước khi nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa cần phân loại hồ sơ vụ án xét xử lần đầu hay hồ sơ vụ án xét xử lại để tập trung nghiên cứu làm rõ yêu cầu của hoạt động kiểm sát xét xử để phục vụ cho công tác kiểm sát.

2. Trích cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình
Các tài liệu thu thập theo thời gian ở khâu nghiên cứu sơ bộ hồ sơ vụ án sẽ khó cho việc xác định chứng cứ mà từng bên đương sự cung cấp, gây khó khăn cho việc định hình phương án giải quyết vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ theo từng tệp tài liệu của nguyên đơn, của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tài liệu về tố tụng của Tòa án giúp cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có được những hình dung căn bản về vụ án và các hoạt động tố tụng của Tòa án. Trên cơ sở này, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có thể đánh giá được sự tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và hiểu sâu sắc hơn nội dung sự việc, đưa ra được quan điểm đúng đắn về việc giải quyết vụ án. Đó là lý do mà việc trích cứu hồ sơ vụ án được đưa ra có tính bắt buộc đối với Kiểm sát viên nhằm từ đó hổ tương cho KSV nghiên cứu hồ sơ cũng như quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia xét xử được dể dàng hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Trích cứu hồ sơ vụ án là thao tác nghiệp vụ của Kiểm sát viên, mục đích nhằm trích tóm tắt diễn biến quá trình giải quyết vụ án của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án, đồng thời trích dẫn nội dung của những tài liệu, chứng cứ được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.

Việc trích cứu hồ sơ vụ án dân sự nói chung và trích cứu hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng đã được nhắc đến như một thành phần quan trọng của hồ sơ kiểm sát trong Hướng dẫn số 27/HD –VKSTC –V5 và Hướng dẫn 28/HD – VKSNDTC nhưng đến nay chưa có văn bản chính thức hướng dẫn trích cứu hồ sơ vụ án cụ thể. Đồng thời, không phải tất cả Kiểm sát viên đều nhận thức đúng đắn về vai trò của việc trích cứu hồ sơ vụ án đối với hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa và đối với việc dự thảo bài phát biểu của Kiểm sát viên, dự thảo đề cương hỏi tại phiên tòa. Do đó, vẫn còn tồn tại thực tế việc Kiểm sát viên chưa nghiêm túc thực hiện việc trích cứu hồ sơ mà việc trích cứu còn mang tính đối phó. Có nhiều cách để trích cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình. Kiểm sát viên có thể chọn trích cứu trực tiếp, trích cứu gián tiếp, trích cứu theo trình tự thời gian, trích cứu theo chứng cứ và thủ tục tố tụng.

Trích cứu trực tiếp: Là trích dẫn nguyên văn các tài liệu, chứng cứ của hồ sơ gốc vào bản trích cứu. Trích dẫn nguyên văn phải bảo đảm đúng chính xác từng câu, từng chữ được sử dụng trong bản gốc được trích dẫn. Đây là hình thức trích cứu thường được áp dụng đối với những vụ án hôn nhân gia đình mà lời trình bày về cùng một tình tiết khách quan của các đương sự có mẫu thuẫn hoặc lời trình bày của cùng một đương sự nhưng có sự khác nhau giữa những lần tự khai. Ngoài ra, đối với các tài liệu, chứng cứ có thể có sự khác nhau trong cách hiểu giữa người trích cứu hồ sơ và Kiểm sát viên được phân công tham gia xét xử tại phiên tòa hoặc đối với các tài liệu chứa đựng các thông tin mà không thể trích cứu toàn bộ nội dung như Giấy đăng ký kết hôn, Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.  Lưu ý, đối với phần nội dung trích dẫn nguyên văn, Kiểm sát viên cần phải đặt nội dung trích dẫn trong ngoặc kép (“/” ).

Trích cứu gián tiếp: Là sử dụng ý tưởng, kết quả, hoặc ý của một vấn đề của tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để diễn tả lại theo cách viết của mình nhưng phải đảm bảo đúng nội dung của bản gốc của chứng cứ. Khi trích dẫn theo cách này cần cẩn trọng và chính xác để tránh diễn dịch sai, đảm bảo trung thực, chính xác với nội dung của chứng cứ gốc. Hình thức này có thể và thường được áp dụng với vụ án phức tạp, nhiều đương sự, các nội dung ý kiến, lời trình bày của các đương sự trùng lặp, số lượng tài liệu, chứng cứ bổ trợ cho nhau nằm ở nhiều bút lục hoặc những tài liệu chứng cứ thu thập được có nội dung giống nhau hoặc việc thu thập chứng cứ do người tiến hành tố tụng diễn đạt với văn phong dài dòng, không tập trung, việc sử dụng câu từ cẩu thả không hợp với văn hóa pháp lý... Khi viện dẫn Kiểm sát viên nêu ý chính với nội dung tóm lược, viết cụ thể bút lục trong hồ sơ của Tòa án và sao chụp tài liệu đó.

Trích cứu theo trình tự thời gian: Cách trích cứu này nhằm giúp Kiểm sát viên kiểm tra tính thống nhất, tính phù hợp hoặc mâu thuẫn của chứng cứ thu thập được theo thời gian. Trích cứu theo trình tự thời gian thường được sử dụng để trích cứu các thủ tục tố tụng mà Tòa án đã thực hiện nhằm phát hiện vi phạm về thời hạn tố tụng, vi phạm quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục, trình tự thực hiện các hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Tòa án.
Trích cứu theo chứng cứ và trình tự tố tụng: Bản cứu sẽ được trích dẫn theo các quyết định tố tụng của Tòa án ban hành như Biên bản phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, các quyết định áp dụng biện pháp xác minh, điều tra thu thập chứng cứ hoặc theo Bản tự khai, Đơn yêu cầu, Đơn đề nghị của của các đương sự;… Ngoài ra, Kiểm sát viên cũng có thể áp dụng linh hoạt các cách thức trích cứu tài liệu, chứng cứ này tùy theo nội dung trích cứu, ý đồ của người trích cứu miễn là đảm bảo tính khoa học của việc trình bày và đảm bảo được vai trò của hoạt động trích cứu hồ sơ vụ án đã nêu trên.
 
Nội dung trích cứu cần phải được ghi rõ trích cứu từ tài liệu nào, tài liệu đó được đánh số bút lục bao nhiêu trong hồ sơ vụ án do Tòa án lập. Kiểm sát viên trong cùng một đơn vị công tác hoặc ở cùng một địa phương nếu có thể thống nhất cùng chọn ra một Mẫu bản trích cứu để sử dụng nhất quán thì sẽ tạo ra sự thuận tiện khi Kiểm sát viên cấp dưới trao đổi với Kiểm sát viên cấp trên hoặc ngược lại trong quá trình trao đổi án hoặc phục vụ cho công tác kháng nghị, báo cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm cũng như phục vụ cho Viện kiểm sát cấp trên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ đối với cấp dưới.

Thông thường, nội dung bản trích cứu hồ sơ vụ án sẽ gồm 04 phần:
- Thông tin về vụ án dân sự và tóm tắt nội dung vụ án;
- Tóm tắt trình tự, diễn biến của quá trình thụ lý, giải quyết vụ án của Tòa án;
- Ý kiến, lời trình bày của các đương sự, các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án;
- Nội dung của các tài liệu, chứng cứ do Tòa án xác minh, thu thập để giải quyết vụ án.

Như vậy, ngoài việc ghi nhận các nội dung chính của nội dung vụ án cùng các ý kiến, lời trình bày của các đương sự, các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án, bản trích cứu đã hệ thống được các thủ tục tố tụng mà Thẩm phán, Tòa án đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án nhằm giúp cho Kiểm sát viên nắm bắt đầy đủ diễn tiến quá trình thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án, qua đó làm rõ các tình tiết khách quan nhằm định hướng đúng đắn cho Kiểm sát viên đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.
Đối với các vụ án hôn nhân và gia đình đơn giản, việc trích cứu hồ sơ có thể thực hiện sơ sài hơn nhưng không bỏ sót các chi tiết cần thiết. Tuy nhiên khi nghiên cứu các hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình phức tạp, có nhiều quan hệ tranh chấp, nhiều đương sự, nhiều chứng cứ, tài liệu thì việc trích cứu hồ sơ vụ án là thao tác nghiệp vụ cần thiết của KSV, KTV. Việc trích cứu tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ càng chi tiết, khoa học, Kiểm sát viên sẽ càng dễ dàng hiểu về nội dung vụ án, việc tìm kiếm chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ càng nhanh, phục vụ cho việc trình bày quan điểm, lập luận bảo vệ quan điểm của Kiểm sát viên càng thuyết phục.

3. Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình đến hết thời hạn chuẩn bị xét xử
Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án hôn nhân và gia đình là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án hôn hân và gia đình. Trong giai đoạn đoạn này, Thẩm phán phải thực hiện các nhiệm vụ lập hồ sơ vụ án; Xác định thành phần và tư các đương sự, người tham gia tố tụng khác; Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự; Làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án thông qua việc tiến hành các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ; Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tổ chức phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải; Đồng thời, Thẩm phán phải ra một trong số các quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định đưa vụ án ra xét xử tùy từng trường hợp. Kiểm sát việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán là việc Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo các quy định về thời hạn tố tụng, trình tự, thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bao gồm:
- Thời hạn thông báo thụ lý
- Thời hạn chuẩn bị xét xử
- Việc tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho các đương sự, những người tham gia tố tụng khác và gửi văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát gồm: Thông báo thụ lý, Thông báo về việc cung cấp chứng cứ, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cú và hòa giải (trong trường hợp một bên đương sự vắng mặt hoặc xin giải quyết vắng mặt), Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
- Tổ chức phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cú và hòa giải;
- Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ

3.1. Kiểm sát việc thụ lý và thông báo thụ lý
- Kiểm sát thụ lý: Thẩm phán thụ lý vụ án trên cơ cở loại trừ các trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện. Chính vì vậy, để kiểm sát việc thụ lý vụ án, Kiểm sát viên cần nắm vững các trường hợp trả lại đơn khởi kiện ở Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết 04/2017/NQ – HĐTP hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự về trả lại đơn khởi kiện và quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Điểm mới của Nghị quyết 04/2017/NQ – HĐTP chính là việc xác định địa chỉ và xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, người khởi kiện trong vụ án hôn nhân và gia đình, có thể là người vợ hoặc người chồng trong quan hệ hôn nhân, chỉ cần ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ – HĐTP thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và thụ lý. Trong vụ án hôn nhân và gia đình, người khởi kiện chỉ cần cung cấp địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ tạm trú của bị đơn thì được coi là “ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện. Quy định này đã giải quyết thực trạng đã kéo dài trong nhiều năm, khi một trong hai vợ chồng vì không muốn ly hôn mà rời khỏi nơi cư trú đồng thời cố tình che giấu địa chỉ mình hiện sinh sống, gây khó khăn cho người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Trong trường hợp không thể tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn tại địa chỉ đã được người khởi kiện cung cấp do bị đơn không còn cư trú, làm việc tại địa chỉ này thì Tòa án sẽ phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về địa chỉ mới của bị đơn. Trong trường hợp Tòa án không xác minh được địa chỉ mới của bị đơn thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong trường hợp bị đơn cố tình che giấu địa chỉ, Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được văn bản tố tụng cho bị đơn. Đây cũng chính là điểm mới nhằm giải tỏa những trói buộc trước đây về địa chỉ của đương sự làm cho một số vụ án hôn nhân và gia đình bị bế tắc ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người khởi kiện.
- Kiểm sát việc thông báo về việc thụ lý vụ án là kiểm sát việc tuân theo quy định về hình thức, nội dung của Thông báo về việc thụ lý vụ án; thủ tục và thời hạn gửi thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát cùng cấp, cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết vụ án và tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho các đương sự. Kiểm sát viên cần nắm vững nguyên tắc chung khi kiểm sát văn bản tố tụng để linh hoạt vận dung khi kiểm sát Thông báo về việc thụ lý vụ án nói riêng và các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án nói chung. Thông báo về việc thu lý vụ án do Viện kiểm sát nhận được từ Tòa án và trong hồ sơ vụ án phải đảm bảo đúng và đầy đủ các nội dung quy định tại Mẫu 30 – DS Danh mục biểu mẫu trong tố tụng dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ- HĐTP ngày 13/01/2017. Kiểm sát viên khi kiểm sát nội dung Thông báo về việc thụ lý vụ án cần lưu ý “Số thông báo thụ lý”, “Ngày tháng năm ban hành”, “Những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Kiểm sát viên ghi “Số Thông báo thụ ký vào “Sổ theo dõi Thông báo thụ lý”. “Số thông báo thụ lý” là một căn cứ quan trọng để Kiểm sát viên theo dõi việc gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án. Nếu số thứ tự của “Số thông báo thụ lý” đầy đủ thì Tòa án đã gửi đầy đủ Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát. Trong trường hợp phát hiện số thụ lý không đầy đủ, không có tính liên hoàn có nghĩa là Tòa án chưa thực hiện việc gửi đầy đủ Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát, qua đó  Kiểm sát viên kịp thời phát hiện và yêu cầu Tòa án gửi bổ sung đúng với quy định pháp luật.
“Ngày tháng năm ban hành” là ngày, tháng, năm Tòa án thụ lý vụ án và được ghi trên Thông báo về việc thụ lý vụ án. Đây là cơ sở để xác định vi phạm về thời hạn thông báo thụ lý cũng như xác định vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử.. Thời hạn thông báo thụ lý là 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án. Nhưng thực tế, vì khối lượng công việc lớn, một số Thư ký Tòa án không thực hiện việc tống đạt, gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án cho các chủ thể được quy định tại Khoản 1 Điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mà sẽ tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cùng với Thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ cho các đương sự hoặc gửi Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát cùng với khi gửi hồ sơ vụ án để Kiểm sát viên nghiên cứu tham gia phiên tòa sơ thẩm. Mặc không làm ảnh hưởng nhiều đến Kiểm sát viên nhưng việc nhận Thông báo về việc thụ lý đúng thời hạn luật định sẽ giúp Kiểm sát viên phát hiện kịp thời một số vi phạm về việc thụ lý vụ án của Tòa án thông qua nội dung Thông báo để từ đó yêu cầu Tòa án thực hiện đúng quy định trong việc thông báo về việc thụ lý vụ án trong đó nội hàm cơ bản là thể hiện được “Những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”. Đây chính là căn cứ để Kiểm sát viên xác định việc nguyên đơn có khởi kiện bổ sung hay không, nếu có thì khởi kiện bổ sung vào thời điểm nào, lý do khởi kiện bổ sung, sự thay đổi về địa vị tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án (nếu có), đồng thời đây cũng là căn cứ để xác định việc Thẩm phán có vượt quá phạm vi xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hay không. Trên cơ sở đối chiếu với danh mục tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện gửi kèm đơn khởi kiện, Kiểm sát viên sẽ dễ dàng nhận ra vụ án này có thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay không. Ví dụ, tranh chấp ly hôn có đến 03 quan hệ tranh chấp phải làm rõ (quan hệ hôn nhân, quan hệ con cái và quan hệ tài sản). Trong “Những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”phải ghi rõ giải quyết ly hôn giữa ai và ai; về con chung chưa thành niên nguyện vọng như thế nào; Về tài sản chung và nghĩa vụ chung, nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải quyết hay không, nếu có, nguyện vọng chia tài sản chung như thế nào, trách nhiệm của các đương sự ra sao. Thông qua “Những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”, Kiểm sát viên sẽ dễ dàng nhận định quan hệ tranh chấp mà Tòa án xác định trong Thông báo về việc thụ lý vụ án có đúng với quy định pháp luật hay không. Đặc biệt là quan hệ tranh chấp tài sản và nghĩa vụ chung vợ chồng khi ly hôn hoặc sau khi ly hôn cần phải được nêu hết sức cụ thể vì đây là quan hệ phức tạp, có liên quan đến nhiều đương sự và thường phát sinh sai phạm trong quá trình giải quyết vụ án,

3.2. Kiểm sát việc đưa vụ án ra xét xử
Kiểm sát việc đưa vụ án ra xét xử là việc Kiểm sát viên kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử của Thẩm phán. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian pháp luật quy định để Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Khoản 2 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hôn nhân và gia đình. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án hôn nhân và gia đình tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong trường hợp có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện khách quan, sự kiện bất khả kháng thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 02 tháng.
Để kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, Kiểm sát viên căn cứ vào “ngày tháng năm” trên Thông báo việc thụ lý vụ án và “ngày tháng năm” Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu khoảng thời gian giữa thời điểm Thông báo thụ lý và Quyết định đưa vụ án ra xét xử mà quá 04 tháng hoặc 06 tháng (trong trường hợp có Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử), Kiểm sát viên xác định Thẩm phán đã vi phạm quy định về việc đưa vụ án ra xét xử và cần ban hành kiến nghị. Vì thế, quá trình kiểm sát việc gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án và việc kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử là một quá trình xuyên suốt, liên tục có tính hổ tương mà qua đó giúp Kiểm sát viên theo dõi, phát hiện kịp thời và nhắc nhở Thẩm phán được phân công đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa sơ thẩm. Nếu kéo dài thời hạn này, Kiểm sát viên cần xem xét việc kéo dài thời hạn có căn cứ và lí do chính đáng hay không, có phát sinh những văn bản tố tụng nào và các văn bản phát sinh Tòa án có thực hiện gửi đầy đủ không.

3.3. Kiểm sát các hoạt động tố tụng khác
Ngoài Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; và có thể ra một trong số các quyết định: “Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án”, “Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án”, “Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời”…….. nhưng Tòa án có gửi đủ cho Viện kiểm sát chưa, những quyết định nào chưa gửi hoặc gửi chậm để tổng hợp kiến nghị vi phạm nếu xét thấy cần thiết.
Đối với Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Kiểm sát viên không tham gia trực tiếp phiên họp nên rất khó để phát hiện vi phạm về mặt trình tự, thủ thục, thành phần. Nhưng thông qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trên cơ cở đối chiếu các tài liệu này với nhau là cơ sở phát hiện sự thiếu khách quan trong quá trình giải quyết vụ án và hoàn thiện hồ sơ để đối phó của Thẩm phán. Để thực hiện có hiệu quả công tác này cần nhưng thao tác nghiệp vụ sau:
- Đối chiếu “Ngày tháng năm”, thành phần tham gia phiên họp trên Thông báo về Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và “Ngày tháng năm” trên Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
- Đối chiếu thời gian bắt đầu phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và thời gian bắt đầu phiên họp hòa giải trong Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
- Đối chiếu thành phần tham gia, những người có mặt trong Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải với thành phần và tư cách đương sự, các Giấy triệu tập và các biên bản tống đạt có liên quan đến việc thông báo về phiên họp, tổ chức và thông báo kết quả;
- Đối chiếu danh mục tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán công bố trong Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;
- Xem xét các tài liệu, chứng cứ mà từng đương sự bổ sung, Tòa án cung cấp được đến thời điểm diễn ra phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
- Đối chiếu phần nội dung mà các bên đã thống nhất, chưa thống nhất giữa các Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải với nhau và với Thông bảo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Đối với các văn bản tố tụng trong giai đoạn này, Kiểm sát viên khi kiểm sát có thể vận dụng nguyên tắc kiểm sát các văn bản tố tụng đã nêu phần trên để đảm bảo không bỏ sót các nội dung cần xem xét và linh hoạt trong quá trình kiểm sát tùy thuộc các tình huống cụ thể.

4. Làm rõ nội dung vụ án hôn nhân và gia đình
Làm rõ nội dung vụ án hôn nhân và gia đình là Kiểm sát viên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết của Tòa án, xác định thành phần và tư cách đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Đồng thời với việc xem xét các quan hệ, thủ tục trên, Kiểm sát viên xem xét toàn diện các yêu cầu khởi kiện của đương sự, phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu có để định hình cho công tác nghiên cứu cũng như định hình hướng xử lý vụ án.
Xác đinh đúng đắn quan hệ pháp luật tranh chấp là thao tác nghiệp vụ có tính căn bản của Thẩm phán khi tiến hành thụ lý vụ án, vì quan hệ pháp luật tranh chấp có ảnh hưởng đến quyền khởi kiện, việc xác định thành phần và tư cách đương sự và những người tham gia tố tụng khác và việc xác định pháp luật nội dung có liên quan mật thiết, hữu cơ đến quá trình giải quyết vụ án.

Để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phát sinh, Kiểm sát viên cần đọc kỹ đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung (nếu có), yêu cầu của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đồng thời, Kiểm sát viên phải xem xét tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập là có căn cứ. Xác định đúng yêu cầu của đương sự nhằm mục đích xác định đúng phạm vi giải quyết của Tòa án đối với mỗi vụ án hôn nhân và gia đình cụ thể. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp tương ứng với khoản nào của Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong một vụ án có thể chỉ có một quan hệ pháp luật mà Tòa án phải giải quyết, nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết. Việc xác định đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật cần phải giải quyết có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho việc xác định các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự đã cung cấp, Tòa án đã xác minh, thu thập đã đầy đủ hay chưa và xác định được thành phần đương sự của vụ án, xác định được pháp luật cần áp dụng để giải quyết vụ án.

Việc bổ sung nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật cũ đòi hỏi Kiểm sát viên khi xác định quan hệ pháp luật tranh chấp ở Điều 28 cần lưu ý xem xét đến pháp luật chuyên ngành có liên quan điều chỉnh quan hệ pháp luật tranh chấp. Trong trường hợp có pháp luật chuyên ngành điều chỉnh thì Kiểm sát viên ưu tiên áp dụng quy định của pháp luật chuyên ngành về tên gọi quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, điều kiện khởi kiện trong trường hợp luật chuyên ngành có những quy định khác với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Quyền khởi kiện trong vụ án hôn nhân và gia đình cũng là một vấn đề cần bàn đến. Kiểm sát viên cần xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 hoặc có thuộc trường hợp bị hạn chế ly hôn quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình, hay thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các Điều 2, 3 Nghị quyết 04/2017 hay không. Nếu như trong tranh chấp ly hôn, người có quyền khởi kiện là vợ hoặc chồng, hoặc người đại diện hợp pháp của vợ hoặc chồng (trong trường hợp một bên vợ/chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, bị khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi) theo quy định tại Điều 186, 187 Bộ luật tố tụng dân sư năm 2015, thì trong vụ án tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người có quyền khởi kiện là người mang thai hộ hoặc người thuê mang thai hộ và cá nhân khác phù hợp với quy định tại Khoản 5 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sư năm 2015. Kiểm sát viên cần lưu ý trường hợp người khởi kiện quy định tại Điều 187 để xác định cá nhân, tổ chức khởi kiện có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình trong từng vụ án cụ thể và cần xác định đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự người đại diện.
Xác định tư các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hôn nhân và gia đình là việc Kiểm sát viên cần xác định việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của ai, cần đưa ai tham gia tố tụng, đưa người này vào tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc xác định tư cách đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hôn nhân và gia đình thường gặp nhiều khó khăn trong trường hợp tranh chấp khi ly hôn hoặc sau ly hôn có liên quan đến chia tài sản chung vợ chồng và xác định nghĩa vụ (nợ) chung. Do đó, khi xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án hôn nhân và gia đình, Kiểm sát viên cần nắm vững nguyên tắc “việc giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện trong vụ án, đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quyền lợi, nghĩa vụ của những người khác có liên quan nhưng không phải là người khởi kiện, cũng không phải là người bị kiện”.

Các vụ án hôn nhân và gia đình tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Kiểm sát viên cần xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết đúng với quy định tại Điều 35, Điều 37, Điều 39, Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong trường hợp các bên lựa chọn Tòa án thì phải có văn bản thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp phát hiện Tòa án thụ lý giải quyết vụ án không đúng với thẩm quyền, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện để yêu cầu Tòa án đã thụ lý chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết (Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Trường hợp Tòa án vẫn tiến hành giải quyết, Kiểm sát viên sẽ báo cáo Lãnh đạo Viện thực hiện quyền hạn của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý trường hợp vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài mà nguyên đơn chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài. Nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn mà không trả lại đơn khởi kiện. Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung là đúng quy định.
Trên cơ sở chủ động làm rõ nội dung vụ án, Kiểm sát viên mới có căn cứ xác định Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án có đúng thẩm quyền hay không, việc thực hiện các hoạt động tố tụng của Tòa án là có căn cứ và phù hợp không, và đồng thời đưa ra quan điểm giải quyết vụ án

5. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ
Trong hồ sơ vụ án có thể có rất nhiều tài liệu, chứng cứ được đương sự cung cấp, Tòa án thu thập. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên khi thực hiện kiểm tra và đánh giá chứng cứ là:
- Kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án;
- Đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ thực có đối với tình tiết khách quan của vụ án;
- Đánh giá tính đầy đủ của chứng cứ đối với việc giai quyết vụ án.
Chứng cứ hợp pháp là các tài liệu do đương sự xuất trình, giao nộp và Tòa án thu thập đúng với trình tự, thủ tục và đảm bảo hình thức tài liệu, chứng cứ đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án. Theo quy định, tài liệu, chứng cứ phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực, nếu là giấy tờ, tài liệu từ nước ngoài gửi về thì phải được hợp pháp hóa Lãnh sự. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án, có nhiều tài liệu photocopy không phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực vẫn được xem là chứng cứ hợp pháp và được thừa nhận là có giá trị chứng minh nhờ “tính liên quan” của các tài liệu này. “Tính liên quan” của chứng cứ thể hiện ở việc tài liệu có liên quan đến các tình tiết của vụ án, hoặc có liên quan đến các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, đồng thời, tài liệu đang xem xét chứa đựng thông tin theo hướng củng cố hoặc loại trừ chứng cứ khác, có thể sử dụng để xác định, làm rõ các tình tiết khách quan trong vụ án cũng như chứng minh yêu cầu của đương sự là có căn cứ.

Khi xác định những chứng cứ hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ đó, Kiểm sát viên phải trả lời câu hỏi sau:
- Các tài liệu, chứng cứ hiện có trong hồ sơ vụ án có đầy đủ làm rõ và chứng minh thuyết phục yêu cầu, đề nghị của các đương sự không?
- Các tài liệu, chứng cứ hiện có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ để làm cơ sở giải quyết vụ án chưa?
Cần yêu cầu Tòa án phải thu thập thêm chứng cứ, tài liệu hay phải triệu tập đương sự, người làm chứng, người biết về sự việc, cơ quan, tổ chức có liên quan để làm sáng tỏ vấn đề. Qua đó, Kiểm sát viên sẽ dễ dàng xác định: (1) Bổ sung hay loại bỏ người tham gia tố tụng; (2) Xác định chứng cứ mà Tòa án còn thiếu để giải quyết vụ án; (3) Xác định các vấn đề, những nội dung cần tập trung hỏi, làm rõ tại phiên tòa (khi xây dựng dự thảo đề cương hỏi tại phiên tòa)
Khi nghiên cứu hồ sơ, cần đối chiếu quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về chứng minh và chứng cứ với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để làm rõ trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ có phù hợp quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hay không, đương sự đã được biết, được tiếp cận, sao chụp đầy đủ chứng cứ chưa. Trường hợp người cha, người mẹ không thừa nhận là con chung của vợ chồng thì các bên đương sự có xuất trình chứng cứ để chứng minh là giám định ADN không. Về quan hệ tài sản của vợ chồng, hồ sơ cần có tài liệu, chứng cứ để xác định những tài sản gì chung, riêng; nguồn gốc của tài sản, ai đang quản lý sử dụng, hiện trạng của tài sản như thế nào. Về công sức có yêu cầu trích chia công sức trong thời gian chung sống cùng gia đình chồng hoặc vợ không, cụ thể yêu cầu ra sao, có tài liệu gì chứng minh. Trường hợp chứng cứ chưa được thu thập đầy đủ Kiểm sát viên đề xuất Lãnh đạo Viện yêu cầu Tòa án thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ (văn bản phải nêu cụ thể tài liệu cần bổ sung). Tuy nhiên, vì thời gian đến ngày mở phiên tòa sơ thẩm ngắn, nên yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát thường không được thực hiện kịp thời. Do đó, Kiểm sát viên có thể trực tiếp thu thập tài liệu, chứng cứ còn thiếu tại phiên tòa thông qua thủ tục hỏi trực tiếp các đương sự. Trong trường hợp Tòa án không thực hiện các yêu cầu của Viện Kiểm sát, Kiểm sát Viện có thể đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nếu Hội đồng vẫn tiếp tục xét xử vụ án thì trong trường hợp này Kiểm sát viên chỉ phát biểu về việc tuân theo pháp luật đối với phần tố tụng và không phát biểu về đường lối giải quyết vụ án. Sau phiên tòa Kiểm sát viên có trách nhiệm báo báo sự việc với Lãnh đạo Viện để xin ý kiến chỉ đạo trong việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với trường hợp này.

6. Làm rõ các vấn đề về áp dụng pháp luật nội dung
Khi nghiên cứu các hồ sơ vụ án ly hôn để xác định áp dụng Điều 55 hoặc Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để cho ly hôn hoặc bác đơn ly hôn, công nhận thuận tình ly hôn hoặc không công nhận là vợ chồng, hủy kết hôn trái pháp luật, Kiểm sát viên cần chú ý trong một số trường hợp sau đây vẫn được công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp:

 Trường hợp thứ nhất: là trường hợp hôn nhân vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng vẫn được công nhận là hôn nhân hợp pháp, cụ thể là trường hợp các bên kết hôn ở miền Bắc trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (có hiệu lực từ ngày 13/01/1960). Bởi lẽ, trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì nhà nước ta chưa có Luật hôn nhân và gia đình nên mọi trường hợp kết hôn không đúng theo quy định của Luật HN-GĐ năm 1959 đều được coi là hợp pháp.
Trường hợp kết hôn ở miền Nam trước ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực đó là trường hợp cán bộ, bộ đội đã có vợ chồng ở miền Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác, đây là loại quan hệ hôn nhân có tính chất đặc biệt, là hậu quả của chiến tranh, vợ chồng sống xa nhau do điều kiện chính trị nên không biết tin tức của nhau hoặc tin tức không xác thực vì vậy đã lấy vợ hoặc lấy chồng khác nay nếu một trong hai người vợ tự nguyện xin ly hôn thì tòa án giải quyết yêu cầu chính đáng của họ (điểm 1 mục I thông tư 60 TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết về tranh chấp hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác).

 Trường hợp thứ hai: Là trường hợp không có đăng ký kết hôn nhưng vẫn được công nhận là hôn nhân hợp pháp đó là trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (trước ngày 03/01/1987). Theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng được xác định là hợp pháp kể từ ngày họ chung sống với nhau. Trường hợp này pháp luật khuyến khích việc đi đăng ký kết hôn, nếu có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý và giải quyết theo quy định về ly hôn. Đối với trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà chưa đăng ký kết hôn thì thời hạn để đăng ký kết hôn là từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003. Trong thời hạn trên nếu các bên đăng ký kết hôn thì vẫn được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp kể từ thời điểm họ chung sống với nhau. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau kể từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 không có đăng ký kết hôn mà đến ngày 01/01/2003 vẫn không đăng ký kết hôn thì khi ly hôn, Tòa án tuyên bố không công nhận là vợ chồng.

Trường hợp thứ ba: là trường hợp hôn nhân có vi phạm về độ tuổi kết hôn vẫn được công nhận là quan hệ vợ chồng. Được hiểu là vi phạm độ tuổi kết hôn là trường hợp kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn. Theo quy định tại điểm 1 Điều 9 Luật HN-GĐ năm 2014 thì độ tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ tuổi để kết hôn (theo khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 độ tuổi kết hôn đối với nam là từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi), nhưng vì một lý do nào đó mà họ đã kết hôn khi chưa đủ tuổi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nếu đến thời điểm xảy ra việc xin ly hôn mà cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật mà tòa án thụ lý để giải quyết việc ly hôn theo thủ tục chung (khoản 2 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Về con chung, Kiểm sát viên cần xác định vợ chồng có mấy con chung cùng với ngày tháng năm sinh của từng người con; Có con là người chưa thành niên, con dưới ba tuổi hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập để tự nuôi mình không. Việc xác minh chứng cứ chứng minh hiện các con đang ở với ai, nguyện vọng của mỗi bên về việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, thu nhập của mỗi bên, tài sản riêng của mỗi bên, tình trạng sức khỏe, đạo đức, lố sống, tư cách, nghề nghiệp của mỗi bên là yếu tố quan trọng để xác định quyền nuôi con khi ly hôn. Trong trường hợp con đã từ 7 tuổi trở lên thì cần xem xét nguyện vọng của các con muốn ở với ai. Qua đó, xác định người trực tiếp nuôi con chung, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 58, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên còn phải xác định sơ bộ các văn bản quy phạm pháp luật, các điều luật (cả luật nội dung và luật tố tụng) cần áp dụng và hướng giải quyết từng quan hệ pháp luật trong vụ án, từ đó, chuẩn bị các văn bản pháp luật cần thiết, chuẩn bị cho việc xây dựng Báo cáo đề xuất quan điểm giải quyết vụ án dân sự trình Lãnh đạo Viện phê duyệt, xây dựng dự thảo văn bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm và nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên sẽ trình bày tại phiên tòa sơ thẩm sau này.

Về tài sản, Kiểm sát viên cần xem xét vợ chồng có thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn theo quy định tại các Điều 47 - 50 Luật hôn nhân và gia đình hay không và các bên có cung cấp được chứng cứ hợp pháp chứng minh thỏa thuận này hay không. Trường hợp không có thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, Kiểm sát viên cần xác định tài sản nào là tài sản riêng, tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Về tài sản chung (Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình), tài sản riêng (Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình) của vợ chồng, những tài sản vợ chồng đã thống nhất được và những tài sản vợ chồng chưa thống nhất được. Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, nợ chung, Kiểm sát viên căn cứ vào nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn quy định tại Điều 59 và các Điều 61, Điều 62, Điều 63, Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cần xác định tài sản đương sự đã thống nhất, tài sản chưa thống nhất; làm rõ nguồn gốc tài sản, quá trình sử dụng, quản lý tài sản, tình trạng tài sản (giá trị, giá trị sử dụng của tài sản, tài sản phân chia được và không phân chia được), công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; yêu cầu, nguyện vọng của các bên; điều kiện của mỗi bên sau khi ly hôn. Ngoài ra, cần xem xét đến hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung để định hướng trong việc phần chia, hổ trợ hoặc xác định công sức đóng góp, duy trì tài sản chung theo tứng trường hợp cụ thể.

Trường hợp tài sản tranh chấp là nhà ở và quyền sử dụng đất, cần dựa trên lời khai của người cho tài sản, người làm chứng, tài liệu liên quan đến nguồn gốc tài sản (do thừa kế, tặng cho hay chuyển nhượng, chuyển đổi), Giấy chứng nhận quyền sủ dụng đất, quyền sở hữu nhà đứng tên ai, thời điểm cấp giấy chứng nhận là trước hay sau khi kết hôn... để xác định tài sản chung hay tài sản riêng. Việc phân chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn thực hiện theo quy định tại Điều 62 Luật hôn nhân và gia đình.
Trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất cha mẹ tặng cho vợ chồng người con một diện tích đất nhưng không làm giấy tặng cho, vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất (Án lệ số 03/2016/AL) 
 
Trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình chồng (vợ) thì phải làm rõ phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung. Nếu xác định được phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu không xác định được phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình, thì phải xác định vợ (chồng) có công sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình hay không; vợ chồng và gia đình có thỏa thuận việc chia một phần tài sản trong khối tài sản chung không; vợ chồng có yêu cầu gì về việc trích công sức đóng góp không.

Đối với khoản nợ, khoản cho vay, cần xem xét có hay không có giấy tờ cho vay, nợ, khoản cho vạy khoản nợ nào có sự thống nhất, khoản cho vay, khoản nợ nào vợ chồng không thống nhất, lý do cho vay, nợ, thực tế sử dụng tài sản vay nợ, nguồn gốc tài sản cho vay, lời khai của người cho vay, người vay, người làm chứng, giá trị khoản nợ; đặc biệt trường hợp khoản cho vay, khoản nợ mà một bên không thừa nhận cũng không có giấy tờ, tài liệu ghi nhận cần xác định giá trị khoản cho vay, nợ, mục đích sử dụng khoản nợ để xác định khoản cho vay, khoản nợ là tài sản chung, nợ chung hay nợ riêng (nếu có).
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên phải làm Báo cáo đề xuất giải quyết vụ việc dân sự, xin ý kiến lãnh đạo Viện. Báo cáo đề xuất phải nêu trung thực nội dung vụ án và kết quả nghiên cứu hồ sơ, những đề xuất, kiến nghị và quan điểm về việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án theo hướng dẫn tại Quy chế 364 và các biểu mẫu trong danh mục biểu mẫu công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Trong báo cáo đề xuất, cần ghi rõ Khoản, Điều áp dụng giải quyết vụ án nếu Khoản, Điều đó thuộc Luật, Bộ luật; và trích dẫn nguyên văn quy định áp dụng giải quyết vụ án nếu điều, khoản quy định đó thuộc các văn bản hướng dẫn dưới luật như Thông tư, Thông tư liên tịch, Nghị quyết Hội đồng thẩm phán, Nghị định, Hướng dẫn… theo tinh thần của Hướng dẫn 27/ HD –VKSTC –V5 về việc lập hồ sơ kiểm sát đối với báo cáo đề xuất.

III. Kết luận
Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự nói chung và vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng của Kiểm sát viên trong giai đoạn sơ thẩm là một thao tác nghiệp vụ có tính khoa học và tính logic, là sự đánh giá, xâu chuổi các sự kiện đã diễn biến trong các tài liệu có tại hồ sơ để đi đến một nhận định đúng đắn, khách quan trong tiến trình giải quyết vụ án mà trong đó Kiểm sát viên phải công tâm khi nhìn nhận sự việc và đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu vụ án, Kiểm sát viên luôn luôn ý thức rằng đây vừa là nhiệm vụ trong việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là quyền năng luật định trong tiến trình giải quyết vụ án dân sự nói chung, cho nên việc nghiên cứu phải được tập trung, phương pháp nghiên cứu phải được sáng tạo, đào sâu, soi kỷ, vận dụng một cách tinh tế những kinh nghiệm đã có và tri thức nghiệp vụ nhằm hệ thống hóa các tài liệu có tại hồ sơ để đề ra đường lối giải quyết vụ án. Sở dĩ đưa ra vấn đề quyền năng luật định trong phạm vi hoạt động kiểm sát đối với các vụ án dân sự nói chung và vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng là vì ngoài việc kiểm sát hoạt động của Thẩm phán tòa án, trong quá trình kiểm sát, nghiên cứu hồ sơ vụ án Viện kiểm sát còn phải thực hiện chức năng kiến nghị, quyền yêu cầu và có thể thực hiện quyền Kháng nghị nếu xét thấy việc giải quyết vụ án của Tòa án không đúng pháp luật. Do đó quá trình nghiên cứu vụ án của Kiểm sát viên không thể loại trừ các trường hợp phải thực hiện quyền năng của Viện kiểm sát, vì vậy song song với việc kiểm tra, tổng hợp  cần phải vận dụng căn cứ pháp luật để phát hiện vi phạm của Thẩm phán tòa án từ việc nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án cho đến việc hòa giải, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng như các Quyết định khác của Tòa án trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ. Qua đó Kiểm sát viên tham mưu cho Lãnh đạo việc thực hiện quyền năng kiểm sát tùy thuộc vào các vi phạm trong việc giải quyết vụ án của Tòa án.

Nhìn chung trong một vụ án hôn nhân và gia đình được thể hiện trong chuyên đề này tưởng như chỉ giải quyết một vấn đề đơn giản là ly hôn, chia tài sản, con chung nhưng thực ra khi nghiên cứu án hôn nhân và gia đình nó chứa đúng rất nhiều mối quan hệ tranh chấp cũng như mối quan hệ pháp luật khác như: Hôn nhân thực tế, hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ chồng, nợ chung, nợ riêng, tranh chấp việc vay mượn tài sản, quyền sử dụng đất… vì vậy phải vận dụng nhiều văn bản pháp luật và nhiều nguồn pháp luật để nhằm giải quyết triệt để các mối quan hệ phát sinh. Chính vì lý do này chúng tôi chọn đề tài “Kỷ năng nghiên cứ hồ sơ vụ án hôn nhân và gia đình ở giai đoạn sơ thẩm của Kiểm sát viên” nhằm nói lên một tâm tư đơn giản là góp một phần kinh nghiệm hữu ích để các cá nhân, đơn vị trong phạm vi của ngành có thể vận dụng một phần nhỏ bé nào đó nhằm trong quá trình nghiên cứu, kiểm sát vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng và các vụ án dân sự nói chung đạt được kết quả tốt hơn. Qua việc nghiên cứu vụ án được thực hiện đầy đủ, khách quan, khoa học của Kiểm sát viên chúng tôi tin rằng ngoài việc nâng tầm nhận thức về nghiệp vụ, kiểm sát viên sẽ phát huy hơn nữa tính sáng tạo và tính khoa học tùy thuộc các tình huống cụ thể để trước phiên Tòa sơ thẩm Kiểm sát viên có cơ sở để trình bày một Bài phát biểu có tính căn cứ và tính thuyết phục nhằm năng cao vị thế của Ngành Kiểm sát nhân dân tại phiên tòa sơ thẩm dân sự.

Trong phạm vi chuyên đề có tính trích dẫn này, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu như là đề tài khoa học mà chỉ là diễn giải, trình bày có tính khái quát vấn đề mà không dùng số liệu, sự việc để chứng minh, do đó rất mong Hội đồng xem xét và bổ sung những thiếu sót về văn phong cũng như tri thức pháp lý nhằm tạo điều kiện để chuyên đề chúng tôi được vận dụng có hiệu quả vào công tác thực tế./.

Tác giả bài viết: Lê Thế Nhơn - Đỗ Quang Vĩnh

Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 2 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyển đổi số
Hưởng ứng giải  Búa Liềm Vàng
Giải báo chí phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Công khai ngân sách
Mail công vụ
Thống Kê Truy Cập
  • Đang truy cập401
  • Hôm nay28,846
  • Tháng hiện tại168,956
  • Tổng lượt truy cập16,697,878
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây